Translate

Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2025

HỎI để HIỂU .

  Chũm Sophia

1. Vì sao “Nỗi buồn chiến tranh” sau gần ba thập kỷ vẫn bị một số cựu chiến binh phản đối?
Câu hỏi không mới, nhưng cách trả lời luôn khiến nhiều người né tránh. Điều đáng riêng tư ở đây không phải là Bảo Ninh, mà là ý niệm Người Lính, mang tính phiếm chỉ: tướng lĩnh, chiến sĩ, đồng đội, đồng niên, đồng thời. Những người đã thực sự nằm trong hố cá nhân, bò trên cỏ tranh, đối diện cái chết từng ngày.
“Tôi năm nay 70 tuổi và chưa thấy trường hợp nào” mà người lính cùng thời lại ghét một nhà văn dai dẳng đến như vậy. Hai mươi lăm năm, ba mươi năm không đủ để nguôi ngoai. Đến mức, nếu giả thử NBCT trước đây bị “Người Quản lý văn hóa” cấm thì chúng ta còn có thể đổ cho “cái nước mình nó thế”: quản lý thì phải cấm. Nhưng đằng này, cuốn Thân phận của tình yêu vẫn in, vẫn phát hành.
Người quản lý không ngăn, nhưng người lính không chấp nhận.
Vì Người lính vẫn còn sống. Họ vẫn còn cái quyền không để ai vinh danh một tác phẩm mà họ cho là bôi nhọ tư cách lính. Một người đã hy sinh xương máu, đánh đổi đất đai hòa bình và cả dưỡng khí cho chính tác giả tồn tại, hít thở, thậm chí nhận giải thưởng… luôn có lý do để phẫn nộ khi thấy ký ức của mình bị kể lại theo một cách khác.
Ở đây chúng ta đi vào vùng nguy hiểm, bởi ký ức chiến tranh không bao giờ là ký ức chung. Nó luôn là ký ức cạnh tranh.
Sự “không nguôi giận” ấy không đến từ văn chương, mà đến từ việc NBCT được vinh danh bởi một cơ quan quản lý nhà nước, qua đó “ký ức cá nhân” bỗng biến thành ký ức đại diện. Dù trước đó Người lính biết NBCT đã được dịch sang 20 ngôn ngữ quốc tế khác.
Người lính nhìn thấy ở việc trao giải một thông điệp “Đây mới là sự thật của chiến tranh.”
Và họ phản đối cái “đại diện” ấy, không chỉ phản đối cuốn sách.
Thực tế cho ta thấy...
Ba mươi năm sau ngày Nỗi buồn chiến tranh ra mắt, câu chuyện xoay quanh tác phẩm vẫn chưa được khép lại. Nếu một cuốn tiểu thuyết chỉ là văn chương thuần túy, tranh luận sớm muộn cũng nguội đi. Nhưng ở NBCT, người ta không chỉ đọc một câu chuyện về Kiên và Phương; người ta nhìn thấy cuộc chiến của chính mình, quá khứ của tập thể, nỗi đau của một thế hệ. Đó là lý do vì sao sự căm ghét, phẫn nộ của nhiều cựu binh dai dẳng suốt 25 năm,
không giản lược thành chuyện “thích hay không thích”. Nó là triệu chứng của một xung đột ký ức.
Trong một cuộc phỏng vấn với hai nhà báo Mỹ (trong series 9 tập về văn học chiến tranh Việt Nam), Bảo Ninh từng nói: “Viết về chiến tranh là để chống chiến tranh, để nói về hòa bình.” Câu trả lời tưởng như vô hại, nhưng lại chạm đúng dây thần kinh nhạy cảm nhất của thế hệ cầm súng, chiến tranh với Người lính không phải triết lý, mà là trách nhiệm với Tổ quốc.
NBCT đã không để ký ức ngủ yên. Nó gọi ký ức dậy, và ký ức cựa quậy chống trả.
2. Ai được quyền kể lại chiến tranh?
Theo Maurice Halbwachs (nhà xã hội học Pháp), ký ức cá nhân luôn được định hình trong khung ký ức tập thể. Không ai “nhớ một mình”. Người lính khi nhớ chiến tranh không nhớ theo cảm xúc tự phát; họ nhớ trong cấu trúc của thế hệ, tổ chức quân đội, lý tưởng, và diễn ngôn chính trị đã bao trùm thời đại họ.
Tác giả NBCT đã phá khung đó. Ông không viết “người lính như phải viết”, mà viết “người lính như một con người”. Kiên không hùng tráng, không nói những câu khẩu hiệu, không được “lý tưởng hóa”. Kiên có những biểu hiện điển hình của PTSD, một hội chứng căng thẳng hậu chấn thương đủ combo: ám ảnh, khó ngủ, mùi xác chết trộn với mùi rừng, ký ức rời rạc, nhảy cắt cảnh, thời gian tâm lý bị vỡ vụn.
Nhà phê bình nước ngoài đọc NBCT và lập tức nhận ra “cấu trúc chấn thương” (trauma structure) thời gian đứt đoạn, hồi tưởng bậc thang, lặp lại hình ảnh, giấc mơ ám ảnh. Đó là kỹ thuật Michael Herr từng dùng trong Dispatches, một tác phẩm báo chí, văn chương kinh điển viết về lính Mỹ ở Việt Nam.
Nhưng người lính Việt đọc NBCT thì lại thấy “bôi nhọ”. Không phải vì họ không hiểu PTSD mà vì họ không chấp nhận ký ức cá nhân được nâng lên thành ký ức văn hóa. Ký ức chính thống của họ là: “Vì Tổ quốc quyết sinh.” Còn NBCT ngược lại, dường như nói “Vì nỗi tuyệt vọng quyết sống.” Vì thế giữa Người lính và Bảo Ninh xuất hiện hai hệ giá trị va vào nhau, xung đột.
3. Vì sao NBCT gây xung đột lâu dài?
Học giả Jan Assmann phân biệt “ký ức giao tiếp” (communicative memory), ký ức của những người còn sống, kiểu kể lại trực tiếp và “ký ức văn hóa” (cultural memory) là ký ức được lưu giữ qua văn bản, sách vở, tượng đài, phim ảnh, và từ đó vượt khỏi đời sống của một thế hệ.
NBCT đã bước từ ký ức giao tiếp sang ký ức văn hóa bởi ba lý do:
1.Tác phẩm được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ.
2.Được giảng dạy, nghiên cứu ở nhiều nơi ngoài Việt Nam.
3.Được công nhận như một “hình thức kể lại chiến tranh Việt Nam”.
Từ đây, vấn đề trở nên nhức nhối, ký ức cá nhân của một người lính trở thành đại diện ký ức chiến tranh của một dân tộc, bất kể người lính khác có đồng ý hay không.
Đó chính là điểm mấu chốt dẫn đến phản ứng dữ dội.
Người lính cựu chiến binh Việt Nam không phản đối văn chương hư cấu. Họ phản đối sự “đứng tên ký ức”. Họ không ghét Bảo Ninh vì ông viết về một gã lảo đảo hút lá phơi. Họ ghét vì ông được dịch, được vinh danh, được trao giải, tức là ký ức của ông có nguy cơ đè lên ký ức của họ. À, Người lính ở đây tôi lưu ý với mấy ông già gân rằng, tên gọi chỉ mang tính phiếm chỉ. Người lính bao gồm cả tướng lĩnh và lính. Họ có thể chỉ là vài ngàn người lên tiếng chính thức cũng như người đọc và bênh vực NBCT cũng chỉ từng đó người.
NBCT với họ là một “kẻ xâm lăng ký ức”.
4. “Nội chiến” , lý do người lính gọi Bảo Ninh là phản bội.
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn, Bảo Ninh từng nói: “Về bản chất, chiến tranh Việt Nam là một cuộc nội chiến.” Câu nói này, ở góc nhìn nghiên cứu lịch sử, không mới. Nó là luận điểm đã tồn tại trong nhiều phân tích quốc tế về giai đoạn xung đột 1954–1975.
Nhưng ở Việt Nam, cụm từ “nội chiến” nó hàm chứa ba gạch đầu dòng sau đây:
- phủ nhận tính chính nghĩa của cuộc chiến chống Mỹ.
- hạ thấp ý nghĩa của hy sinh.
- đặt ngang giá hai phía.
Với thế hệ cầm súng, đó là sự xúc phạm lớn nhất. Họ không cần biết cấu trúc văn hóa ký ức Assmann là gì. Họ chỉ hiểu đơn giản, anh gọi cuộc chiến của chúng tôi, cuộc chiến chúng tôi đã mất cha, mất đồng đội, mất tuổi trẻ là “nội chiến”, thì anh chối bỏ cả đời chúng tôi.
Và bây giờ thì tôi đã hiểu sự phẫn nộ kéo dài 25 năm là hợp lý. Vì Ký ức bị xúc phạm thì không có thời hiệu.
5. Hội chứng chiến tranh, NBCT là trị liệu hay là tổn thương?
Điều nghịch lý là, NBCT được quốc tế ca ngợi chính là vì nó làm đúng chức năng của văn học hậu chiến ghi nhận chấn thương, làm lộ vết thương tinh thần, phơi bày sự mục ruỗng tâm lý, và từ đó giúp xã hội đối thoại về hậu quả chiến tranh.
Văn học chiến tranh ở Mỹ, Anh, Pháp đã trải qua giai đoạn tương tự. Dispatches của Herr bị lính Mỹ mắng chửi thậm tệ khi mới xuất bản. Nhưng rồi 20 năm sau, nó trở thành “ký ức văn hóa chiến tranh Việt Nam trong tâm thức Mỹ”.
NBCT đang ở đúng giai đoạn đó ở Việt Nam, mới xung đột và chưa hòa giải, chưa có cơ chế đối thoại ký ức.
Một xã hội thiếu không gian đối thoại ký ức thì ký ức sẽ chảy vào văn học và bùng nổ thành tranh cãi.
6. NBCT có “phản bội” người lính?
Vậy rốt cuộc Bảo Ninh bị Người lính cùng thời ghét vì nỗi gì? Vì ông ấy viết văn hư cấu khác với những gì Người lính trải qua. Nên bị coi là bịa đặt.
Bao nhiêu người lính đã ra trận với tâm thế Bảo vệ Tổ quốc. Có bao nhiêu chàng sinh viên đã rời giảng đường Đại học để hy sinh? Có bao nhiêu thanh niên chưa đủ 17 tuổi cũng viết thư tình nguyện bằng máu để được ra trận. Nhưng chống Mỹ cứu nước dưới ngòi bút của Bảo Ninh lại là một Kiên phơi “lá và hút”. Lảo đảo ôm súng vào trận mạc. Nếu cũng là cốt truyện đó nhưng Bảo Ninh không lấy bối cảnh chiến tranh chống Mỹ thì chưa chắc Bảo Ninh đã bị Người lính, cùng ra trận, cùng thời ghét đến thế. Nếu chỉ viết và để tác phẩm đánh giá bởi bạn đọc thì Bảo Ninh cũng không bị gọi là đồ phản bội, hèn nhát. Nhưng vì Bảo Ninh đã trả lời phỏng vấn trong serie 9 tập của hai nhà báo Mỹ, rằng chiến tranh lúc đó là “nội chiến”. Một khái niệm thể hiện một nhận thức đi ngược lại với Lý tưởng của Người Lính lúc bấy giờ là Vì Tổ quốc quyết sinh. Vì thế Người Lính gọi Bảo Ninh là kẻ khốn nạn.
Lâu nay người Việt đã bắt đầu làm quen với thuật ngữ “hội chứng chiến tranh”. Ngay cả tôi, một người chả có tí trận mạc nào nhưng nhờ tiếp xúc và làm việc cùng với hàng trăm người lính (từ lính đến tướng lĩnh cấp cao) cũng nhận ra rằng cái giá phải trả vì chiến tranh là quá lớn. Bảo Ninh là người giỏi khai thác tâm lý. Ông dám viết những điều mà không có ai thời điểm đó đủ can đảm. Chịu nhận gạch đá để cuốn sách được dịch ra 20 thứ tiếng.
Vậy tại sao 20 ngôn ngữ kia chấp nhận NBCT mà Người lính Việt không chấp nhận? Bởi các quốc gia kia không biết “trong chăn có rận”. Họ cũng chẳng thèm quan tâm khái niệm cuộc chiến của VN là gì, họ chỉ thấy ám ảnh bởi hội chứng chiến tranh – thứ mà cả loài người này đều anti. Chưa kể, “chính trị hóa văn chương nghệ thuật” là thứ mà nhiều quốc gia đã và đang dùng để bào chữa cho chính họ đã làm trong quá khứ.
Câu trả lời công bằng nhất chính là NBCT phản bội huyền thoại, không phản bội con người.
Nó phá hình ảnh lý tưởng hóa về người lính, nhưng tôn trọng nỗi đau thực của con người lính. Nó không chấp nhận việc “đóng gói ký ức chiến tranh vào những câu chuyện đẹp đẽ”.
Vấn đề là nhiều người không phân biệt được huyền thoại và con người. Nên họ cảm thấy bị phản bội.
7. Sau gần 30 năm, NBCT lại thức dậy, làm hỏng một giấc ngủ. Nó lay dậy những ký ức mà nhiều người muốn chôn đi. Nhưng văn hóa, nếu muốn trưởng thành, phải học cách sống chung với ký ức khó chịu. Jan Assmann nói, ký ức văn hóa không nhằm để quên đi, mà để kiểm soát nỗi đau bằng diễn ngôn.
NBCT chính là một diễn ngôn không dễ nuốt. Và có lẽ, đó là giá trị thật sự của nó, buộc chúng ta đặt câu hỏi, thay vì lặp lại những câu trả lời đã được sắp sẵn.
Ký ức chiến tranh Việt Nam còn lâu mới yên. Nhưng ít nhất, với NBCT, chúng ta đã có một lý do chính đáng để khởi động đối thoại, không phải giữa hai nhà văn, mà giữa hai dạng ký ức, ký ức muốn được tôn vinh, và ký ức muốn được hiểu.
Đừng nói văn chương vô hại. Ở một số đất nước, vài dòng bản thảo có thể làm tiêu tùng một đời người. Tác giả: Chũm Sophia

1 nhận xét:

Đi tìm sự thật nói...

Tôi đã đi qua những cánh rừng mà mỗi bước chân đều có thể là bước cuối.
Đã từng nằm co quắp trong cơn sốt rét đến mức tóc rụng sạch, đến mức hơi thở cũng nghe như tiếng rừng mục ruỗng.
Đã từng lăn mình giữa đêm tối, dò từng quả mìn trong tiếng B-52 xé nát bầu trời, trong mùi bom đạn quen như mùi cơm khét.
Và đã từng chứng kiến những thằng bạn buổi sáng còn nói cười, buổi chiều chỉ còn lại cái võng đưa vội về phía sau.

Những năm tháng ấy dạy tôi một điều giản dị mà cay đắng:
Chiến tranh không phải trò đùa.
Không phải câu chữ để tranh luận, cũng chẳng phải triết lý để phán xét.
Chiến tranh là nơi con người bị tước đi từng lớp – sức khỏe, tuổi trẻ, bạn bè, niềm tin – cho đến khi chỉ còn lại một cái lõi trần trụi gọi là “tồn tại”.

Vì thế, mỗi khi ai đó viết về chiến tranh, tôi không đọc bằng con mắt phê bình văn chương.
Tôi đọc bằng ký ức.
Bằng những khuôn mặt đã nằm lại.
Bằng những đêm không ngủ vẫn còn đọng trên ngực mình như một vết sẹo chưa lành.

Tôi viết những dòng này không để kết tội hay bênh vực ai.
Mà để nhắc lại rằng: kể về chiến tranh là chạm vào vùng ký ức còn nóng đỏ.
Không ai trong chúng tôi bước ra khỏi cuộc chiến với trái tim lành lặn.
Và vì thế, mỗi cách kể đều có thể làm bật dậy những thứ mà chúng tôi đã cố chôn rất sâu.

Nhưng nếu muốn hiểu nhau – hiểu người lính, hiểu nhà văn, hiểu ký ức của chính dân tộc – thì có lẽ, chúng ta phải bắt đầu từ một câu hỏi thật nhẹ mà thật khó:

“Chiến tranh, rốt cuộc là gì đối với mỗi chúng ta?