Translate

Thứ Năm, 18 tháng 2, 2021

Chồng cây !

 

Nghé mắt mà xem cây cụ trồng Mầm non vất vã to khiếp không
Biết đâu : non cây " già " hơn cả cụ
Đấy nà : Dời cây kheo khéo chồng

Luật hải cảnh Trung Quốc làm tăng nguy cơ đụng độ ở Biển Đông

 > https://vietnamnet.vn/.../luat-hai-canh-trung-quoc-lam...

.
Đọc lại lịch sử xưa, đối chiếu, mới thấy Trung Hoa ngàn năm trước và hiện tại không có gì khác biệt, mặc dù vỏ bọc lúc là phong kiến, lúc là cộng sản, nhưng căn cơ vẫn là độc tài và mê cuồng bá quyền, sẵn sàng chà đạp bất kỳ ai ngăn cản tham vọng của họ.
Lịch sử đã qua, không chỉ để nhớ, mà còn để học biết đủ về nó. Ngày 17/2 hàng năm, người Việt vẫn nhắc nhau về ký ức đau thương và kinh hoàng, gây ra bởi một đế quốc hung tàn nằm cạnh đường biên giới. Nhưng hôm nay, lịch sử còn là lý do để mọi người nhìn kỹ hơn những gì đang đến, chuẩn bị cho những thảm kịch đang đến.
Những xung đột mới, có thể không đến từ đất liền, mà từ biển, đặc biệt từ ngày 1/2/2021, khi Luật Hải Cảnh của Trung Quốc có hiệu lực. Mơ hồ và bao trùm, luật này có 84 điều và 11 chương, cho phép các tàu hải cảnh Trung Quốc có quyền bắn, truy đuổi, bắt giữ… tất cả những tàu thuyền bị coi là vi phạm phía trong và trên vùng biển nằm trong quyền tài phán của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Nhưng cụ thể các nơi như vậy thì không được liệt kê. Hay nói cách khác, Bắc Kinh đang hợp pháp hóa chủ quyền đường chín đoạn của họ bằng vũ lực.
Cách nói mơ hồ này cũng đang gán cho việc cảnh sát biển Trung Quốc có quyền hạn kiểm soát cả ADIZ (vùng nhận dạng phòng không trên biển). Hơn nữa điều 12 của luật này còn tự cho phép các tàu hải cảnh có thể kiểm soát và ngăn chận các vụ đánh bắt, thu hoạch hải sản. Đây quả là cơn ác mộng của ngư dân Việt Nam, vì từ suốt nhiều thập niên qua, số tàu bị đâm, bị bắt và người chết vì các lực lượng từ nước Trung Quốc anh em trên biển Đông, dẫn đầu vẫn là ngư dân Việt.
Mà quả thật, không thể đoán, hay hiểu nổi, khi cuộc chiến 1979 kết thúc, sách giáo khoa Trung Quốc dạy rằng họ đã chiến thắng. Văn chương, kịch nghệ… của Trung Quốc được nhắc đến những chuyện này, nhưng ở Việt Nam, nơi thật sự đã đẩy lùi được cuộc xâm lược, thì chỉ có chút ít thông tin nơi sách giáo khoa, âm nhạc, hội họa… đề cập đến cuộc chiến tranh chống xâm lược của người dân Việt Nam, luôn bị cắt gọt kỹ lưỡng hay từ chối. Đến nay thì gần như xóa trắng.
Đặng Tiểu Bình, người chịu trách nhiệm hai cuộc xâm lăng đẫm máu 1979 và 1988 (Gạc Ma) thì được chính thức dịch sách, ca ngợi “Một trí tuệ siêu việt”, và lại còn tái bản. Còn tác phẩm Gạc Ma, Vòng tròn bất tử, nói về đảo bị cướp, về những người lính Việt Nam chết tức tưởi, thi hài không mang được về quê nhà, thì bị cắt, đình trệ, hơn mười năm chờ đợi rồi được phát hành, nhưng thu hồi ngay sau đó.
Chạnh lòng tự nghĩ. Có lẽ người Việt Nam không thiếu những người khao khát được sống, hành động và nối dài sự thật lịch sử, muốn không để cho máu xương cha ông bị đau tủi ở chốn vô danh. Nhưng điều đơn giản đó, không chỉ có lòng yêu nước là có thể làm được, hôm nay.
nguon Fb Khanh Nguyen

Thứ Tư, 17 tháng 2, 2021

NGƯỜI ĐI, LINH HỒN Ở LẠI ...

Tuấn Khanh
.

Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chén rượu hồng đây xin rót xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này

Chúng tôi chọn những ngày cuối năm để leo lên ngọn đồi lịch sử Charlie, bởi vào lúc này thời tiết không quá khắc nghiệt để lần mò được đến nơi. Mang theo trong chuyến đi, những thứ quan trọng nhất là rượu, hoa và nhang: quà cho những người mà thế hệ chúng tôi chưa từng biết mặt.
Máu xương người Việt…
Khác với việc thắp nhang ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nay nằm trong địa phận tỉnh Bình Dương, đường đi nghĩa trang không khó nhưng lại phải chịu sự dòm ngó và hạch hỏi của nhóm gác cổng do công an địa phương cắt đặt, còn đường đi đến đồi Charlie chỉ có núi rừng, vài tấm bảng chỉ đường phủ đầy bụi đỏ. Thi thoảng trên đường có bắt gặp vài người dân tộc Jarai hay Sedang.
Charlie là một chóp đồi cao nằm giữa ba huyện Sa Thầy, Đắk Tô và Ngọc Hồi, thuộc tỉnh Kon Tum. Đường đi đến đó cheo leo và trắc trở. Chúng tôi đoán là trước năm 1975, hầu hết cuộc chuyển quân đều dựa trên không vận mới có thể nhanh và an toàn. Người Việt trong vùng gọi là Sạc-Li, dựa theo âm tiếng Anh, mà trong chiến tranh Việt Nam, cứ điểm cao 900m so với mặt nước biển được quân đội đặt tên, tạo thành tuyến phòng thủ và quan sát khu vực ngã ba Đông Dương. Nơi đây còn là vùng bảo vệ cho sân bay quân sự Phượng Hoàng và bản doanh bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 22 Bộ binh ở Tân Cảng của miền Nam.
Việc đặt tiểu đoàn 11 nhảy dù Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trấn giữ ở đồi Charlie là một sự khó chịu vô cùng đối với quân Bắc Việt, vì mọi cuộc chuyển quân ở ngã ba Đông Dương hay từ Bắc vào, qua ngã này, đều có thể bị phát hiện. Cho nên, trong cuộc tổng tiến công năm 1972 của quân đội Bắc Việt, cùng với một phần của Mặt trận Giải phóng miền Nam, đồi Charlie là mục tiêu cần phải bị xóa sổ. Cái gai cần phải nhổ cho đường tiến quân thuận tiện từ Tây Nguyên xuống đồng bằng miền Nam.
Mùa hè 1972, người ta gọi đó là mùa hè đỏ lửa. Đỏ lửa là bởi sự nóng bức của thiên nhiên, cộng thêm súng đạn bay khắp nơi trong một cuộc tương tàn nhân danh giải phóng của chủ nghĩa cộng sản. Không có số liệu chính xác nào nói về thương vong của cả hai bên ở đồi Charlie, nhưng dựa trên phần sử liệu được công bố thì phía Việt Nam Cộng Hòa có tiểu đoàn 11 Song kiếm Trấn ải (tạm tính khoảng hơn 600 người) đối đầu với quân của sư đoàn 320 Bắc Việt (tạm tính khoảng gần hơn 7,000 người), chưa kể phía lực lượng Mặt trận Giải Phóng Miền Nam không được công bố, thì con số ít nhất thiệt mạng sau khi máy bay B-52 bỏ bom rải thảm tái chiếm, những thanh niên Việt Nam của cả hai bên thiệt mạng, ít ra cũng phải là 4,000 đến 5,000 người trong trận đó.
Điều đó, có nghĩa rằng chuyến đi mất gần ba tiếng di chuyển lên đến đỉnh đồi của chúng tôi, nơi đâu cũng có máu xương người Việt. Từng viên đá, từng khúc quanh, từng ngọn cây… chắc đều giữ lại phần bí mật nhất chưa bao giờ được kể lại về số phận không chỉ của từng con người, mà của một dân tộc phải chịu điêu linh vì cuộc chiến tranh màu lý tưởng cộng sản.
Ngọn đồi Charlie xanh mướt và lặng lẽ giữa thông xanh, trời mây và gió se sắt lạnh. Đầu ngõ vào cầu treo dẫn đến chân đồi, chính quyền địa phương đến hôm nay cũng chưa dám ghi rõ ràng về cuộc chiến này, mà chỉ đơn giản là “Di tích lịch sử của điểm cao 1015 Charlie và 1049 Delta” – khác với giọng điệu thường đắc thắng và kiêu ngạo sau 1975, khi mà những di tích thường có thêm các tấm bia ngợi ca sự anh dũng của quân đội Bắc Việt. Nhưng ở Charlie, mất mát quá lớn có thể là điều nhà cầm quyền ngại ngùng không muốn nhắc tới. Hàng năm không chỉ có những chuyến xe từ Bắc vào Charlie để viếng người thân sinh Bắc tử Nam, mà chính người miền Nam đứng trên ngọn đồi ấy cũng ngậm ngùi: Ai, điều gì… đã xô đẩy khiến cho máu xương Việt Nam chia lìa và chôn vùi thảm khốc đến vậy?
“Đi thăm ông Trung tá Bảo à?”
Chúng tôi đi xe máy, sáu người chở nhau và tận dụng mọi sức lực tay chân để có thể đến đỉnh đồi, trước khi trời sụp tối. Có đoạn phải vừa nổ máy xe, vừa đẩy, có đoạn vứt bớt đồ lại vì quá mệt, mang vác không nổi. Đoạn đường vừa tạm hết lầy sau mùa mưa, lại khô, trơn và nhiều ổ gà và đá vụn. Mọi người trong đoàn có lúc mệt đến mức hoa mắt, tay chân bủn rủn, thở không được vì không khí ngày càng loãng. Anh B., người khỏe nhất trong nhóm, có lúc đứng lại chắp tay và cầu nguyện “Đã đến được đây, mấy anh phải giúp tụi em đến nơi thắp hương mời rượu cho mấy anh”.
Đã 45 năm rồi. Những ngôi mộ, nếu có, thì giờ cũng đã um tùm cỏ lau. Thịt xương cũng đã là rêu bụi. Chiến địa đã trở thành rừng xanh bao phủ trên núi, ôm kín mọi nỗi lòng. Đó là chưa nói nhiều thế hệ đã đi qua, không biết, hoặc bị tuyên truyền bóp méo tin tức về những người lính Việt Nam Cộng Hòa ở đây. Vậy mà mấy lần, gặp một người Jarai hay Sedang, thấy chúng tôi hồng hộc thở trên đường, họ cười thân thiện và hỏi “đi thăm ông Trung tá Bảo à?”.
Lạ lùng. Sao họ lại biết Trung tá Bảo nhỉ? Thậm chí bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có tên Người ở lại Charlie cũng không nhắc gì về tên của người chỉ huy tiểu đoàn Song kiếm Trấn ải này. Dù sau khi tử trận ở Charlie, Trung tá Nguyễn Đình Bảo (1936-1972) được truy phong đại tá, nhưng dân trong vùng vẫn nhớ về một vị Trung tá, giữa hàng ngàn người đã gửi lại hình hài ở nơi này.
Người ở lại Charlie
Trận chiến Charlie diễn ra trong một tuần, dữ dội. Quân đội Bắc Việt được điều động tiến vào Nam, số trang bị và nhân lực được kể là gấp sáu lần quân Việt Nam Cộng Hòa trấn giữ. Một người lính miền Nam phải chống cự với 6-7 người lính miền Bắc. Pháo kích và tiến công biển người diễn ra cấp tập trong ba ngày đầu. Đạn pháo kích đã khiến Trung tá Nguyễn Đình Bảo tử trận vào ngày thứ hai (12-4-1972), các chỉ huy nối nhau thay quyền kiểm soát cũng tử trận liên tục.
Không chỉ tấn công mà mục tiêu của sư đoàn 320 còn là tiêu diệt cho được tiểu đoàn Song Kiếm Trấn Ải (theo nhà văn Phan Nhật Nam thì sau trận đồi Charlie, tiểu đoàn này mất 400 quân nhân) nên quân Bắc Việt bao vây và chặn đường mọi ngã. Thậm chí súng phòng không Bắc Việt còn được chuẩn bị để ngăn không cho trực thăng tiếp viện. Sau khi không còn đạn dược và lương thực, những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa còn lại đã rút lui, nhường đường cho tốp máy bay B-52 bỏ bom hủy diệt toàn bộ phần Sư đoàn 320 đang tràn lên ở đây. Charlie phút chốc thành bình địa, kể cả những bộ đội từ Bắc vào, cho đến những thân xác còn nằm lại của những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa.
Mọi nỗ lực tấn công hao tổn về con người và súng đạn của phía quân chính quy Bắc Việt hoàn toàn thất bại. Có lẽ vì vậy mà trong wikipedia Việt ngữ nói về Sư đoàn 320, chiến sử Charlie đã không được ghi lại cũng như cũng cố ý không nhắc tới, trong các mục viết ca ngợi danh tiếng của Sư đoàn này.
Nói về trận đánh đó, vùng đất đó, nhà văn Phan Nhật Nam có viết trong bài Người ở lại Charlie: “Bi kịch không riêng đối với những người lính Tiểu Đoàn 11 Dù, qua lần đi khuất của Cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo – Nhưng cũng là bi kịch của mỗi thân phận Người Miền Nam hiện thực qua hy sinh xả kỷ của Người Lính, sự chịu đựng âm thầm của Người Vợ-Đứa Con Người Lính. Nỗi Đau kia hằng mới vì Nỗi Đau Luôn Là Nỗi Đau Chung, cùng với những dấu tích kỳ diệu miên viễn của Tình Yêu trong đời sống trần thế giới hạn của nhân sinh”. (trích)
Cuối năm 1972, quân đội Việt Nam Cộng Hòa có tổ chức dựng bia tưởng niệm trên đỉnh đồi để tưởng các quân nhân đã hy sinh trong cuộc chiến, và ghi nhớ nơi tử trận của Đại tá Nguyễn Đình Bảo. Nhưng rồi sau 1975, chính quyền địa phương theo lệnh từ Hà Nội đã cho đập phá tất cả. San bằng mọi thứ. Nhưng đáng ngạc nhiên, là chính nhà cầm quyền Bắc Việt cũng không hề dựng bất kỳ bia tưởng niệm nào cho hàng ngàn người lính của họ đã thiệt mạng ở nơi này.
Mãi cho đến giữa thập niên 1990, những đoàn thân nhân từ miền Bắc vào để viếng, nơi con em của họ đã để lại tuổi xuân trên ngọn đồi Charlie mới góp tiền cùng nhau dựng một bàn thờ, hương khói. Còn về những người miền Nam, không biết ai đó đã ùn một đống đất, tựa như một gò nhỏ, hay có thể là một nấm mộ tượng trưng cho những ai lên thắp hương cho Đại tá Nguyễn Đình Bảo và những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa. Và dù rất khiêm tốn, không có bia hay chữ ghi chú nào, nhưng mọi người đều biết nếu thắp nhang cho những người miền Nam, thì đến đó.
Từ đỉnh đồi Charlie nhìn bao quát xuống phía dưới. Tháng Tư năm 1972, hàng ngàn quân Bắc Việt giấu mình để từ đó tấn công lên đỉnh đồi
Giải oan cho cuộc biển dâu này.
Khi cả nhóm loay hoay trên ngọn đồi, lúc chiều xuống đậm rồi, vẫn không biết là nơi nào để hướng đến, thì chính một người trẻ tuổi địa phương bất ngờ có mặt xuất hiện trên đó chỉ giúp, “nơi của ông Bảo”, hay nơi để viếng những người cùng ông ngã xuống, cũng vậy.
Hương bay theo gió, những cánh hoa vàng phất phơ trên cỏ. Tôi chợt nhớ đến phần cuối trong Đồi gió hú của Emily Bronte, rằng “dưới những cành hoa phất ấy, những người nằm dưới nấm mộ ấy có thật sư yên nghỉ không?”. Không có ai trả lời tôi suy nghĩ đó, chỉ có tiếng gió rít qua từng hồi như tiếng thở than.
Con đường xuống núi nguy hiểm và khó khăn hơn cả lúc đi lên, vì chung quanh là bóng tối, đường lầy với cát khô và đầy khúc quanh đốc xuống thẳng đứng. Nhưng bên cạnh chuyện việc lo lắng đi ra, ai cũng mang theo một cảm giác kỳ lạ. Trận chiến Charlie lại sống động như mới hôm qua, những người Việt Nam nổ súng vào nhau như vẫn còn nghe tiếng đạn bay. Rừng núi âm u như vẫn chực chờ những cái chết vô định. Chúng tôi cảm nhận được hết mọi thứ và ngồi lại, kể với nhau khi ra đến bên ngoài.
Ký ức thường rồi dần sẽ phai mờ, sự khốc liệt của chiến tranh, máu và nước mắt rồi cũng khô cạn. Nhưng anh hùng tử, khí hùng bất tử, cái chết vì chính nghĩa bảo vệ miền đất tự do của những thanh niên miền Nam Việt Nam quyết bảo vệ vùng đất của mình vẫn được nhớ đến, vẫn phảng phất trong hương gió núi vùng Dakto, trong lời hát, bất ngờ hiện ra vào chiều sẩm tối ở đồi Charlie, khiến chúng tôi gai người – sự linh thiêng của núi sông là đây, của cha anh là đây, của nghịch cảnh tương tàn vì tham vọng cơ đồ là đây.
V., một người trong nhóm thắp hương trên đỉnh đồi vào lúc chiều tà, từng người trong nhóm đi viếng đều có lời cầu nguyện riêng của mình trong phút giây thiêng liêng đó.
Đi trong đoàn có hai sư thầy trẻ, vừa là bạn tín ngưỡng, vừa là người đồng chí hướng. Nhang được đốt lên, hoa được đặt xuống mặt đất bằng. Chai rượu trắng được rót xuống cùng những lời cầu nguyện khác nhau. Anh V., đứng thẳng dáng gầy, tay chắp nhang ngang mày im lặng. Sự tôn nghiêm của anh làm hơi rượu như nồng hơn, sẻ chia như những vần thơ của Tô Thùy Yên:
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chén rượu hồng đây xin rót xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Giờ thì không có ai là kẻ thù, cần diệt trừ và không có nơi chốn nào, cần phải bị giải phóng. Chỉ có những con người nằm lại với nhau, xương thịt nằm lại trên cùng một mảnh đất, cùng ngửa mặt lên bầu trời đêm của ngọn đồi Charlie để thấy thương đau là tên gọi chung của tất cả. Tất cả thịt xương Việt Nam đã đến, đã hư không, chỉ còn linh hồn ở lại.
Chắc chắn rồi chúng tôi sẽ trở lại, rót rượu cho mọi người, không phân biệt là ai. Vì như có một lời hứa âm vang trong tim với những con người đã đến,
Tháng 12-2020
Nhạc sĩ Tuấn Khanh 

DÃ TÂM THÂM ĐỘC CỦA ĐẶNG TIỂU BÌNH

 

.
Sau một thời gian bí mật âm thầm chuyển quân, vũ khí, xe tăng và pháo hạng nặng áp sát biên giới mà hầu như phía Việt Nam không lường được sẽ bị tấn công vào 17/2 (bộ đội và người dân biên giới ngay khi nghe đạn pháo nổ rung chuyển khắp dải biên giới cũng thực sự không thể nghĩ rằng Trung Quốc lại có thể tấn công với qui mô chiến tranh lớn chưa từng có với một nước vốn là bè bạn thân thiết như vậy). Đúng 5 giờ sáng ngày thứ Bảy 17/2/1979, để phía Việt Nam trở tay ko kịp, Trung Quốc đã chọn thời điểm bất ngờ nhất, không kịp chuẩn bị, đề phòng đối với người dân và người lính Việt Nam, Đặng Tiểu Bình đã đồng loạt bất ngờ cho nã pháo cấp tập rền vang và đưa 9 binh đoàn gồm 600.000 binh lính cùng xe tăng thiết giáp của Trung Quốc tham chiến tấn công xâm lược Việt Nam trên toàn dải biên giới giết hại nhiều chục ngàn người dân Việt Nam vô tội, tàn phá biết bao làng mạc thị trấn Việt Nam.
Về mặt vũ khí, chúng triển khai tràn qua biên giới ngay sáng 17/2 đến 550 xe tăng hiện đại nhất lúc bấy giờ, 480 khẩu pháo hạng nặng, 1.260 dàn hỏa tiễn tầm xa và súng cối chưa kể vô số đại liên, trung liên cùng hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 948 máy bay đầy bom và tên lửa sẵn sàng túc trực tham chiến phía sau. Điều này minh chứng chắc chắn đây không phải là sự chuẩn bị cho cuộc tấn công chớp nhoáng, phủ đầu, ‘dạy bài học’ như Đặng Tiểu Bình tuyên bố sau đó mà thực chất là một cuộc chiến tranh xâm lược tổng lực qui mô lớn nhất từ sau chiến tranh Triều Tiên được hoạch định, tính toán rất kỹ, chuẩn bị bí mật khá lâu trước đó.
Rất nhiều người dân, phụ nữ, trẻ em và người lính Việt Nam trúng loạt đạn pháo, đạn xe tăng, đạn đại liên, trung liên và AK của quân Trung Quốc trong đợt tấn công đầu tiên từ tờ mờ sáng, trước khi chết ngã gục xuống cũng không bao giờ tin là mình bị giết chết tức tưởi dưới tay quân đội Trung Quốc anh em môi hở răng lạnh được báo đài lặp đi lặp lại trước giờ.
Lính Trung Quốc đánh sang Việt Nam đã được lệnh dùng chính sách "3 diệt" để khủng bố, đó là giết những cán bộ nhà nước, những người già, trẻ em không kịp chạy trốn, hay thả thuốc độc xuống nguồn nước, phá huỷ tất cả bệnh viện, cầu cống, nhà máy, nhà ở. Mục đích của chúng là không để cho bất cứ ai có thể quay trở về biên giới sinh sống như trước.
Đối phó với dư luận trong nước và quốc tế, sau khi thăm Mỹ chính thức 1/1979 và hội đàm riêng với Tổng thống Mỹ Jimmy Cater để có sự ủng hộ từ Mỹ nhưng bất thành, Đặng Tiểu Bình chỉ đạo Ban Tuyên Giáo và Bộ Ngoại Giao Trung Quốc tuyên truyền dối trá vu cáo cho Việt Nam gây hấn trước, gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc tố cáo trắng trợn Việt Nam đánh lấn chiếm Trung Quốc và gọi cuộc xâm lược là Chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam (对越自卫还击战 - ‘Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến’), ‘dạy con hổ Việt Nam một bài học’, nhưng thực chất âm mưu với chiến thuật dàn quân biển người của quân đội Trung Quốc là đánh nhanh đánh thẳng về Hà Nội trong thời gian sớm nhất vì Đặng Tiểu Bình biết rõ các cánh quân chủ lực thiện chiến cúa Việt Nam đang tập trung ở Cam Pu Chia và sát biên giới Tây Nam ko thể nào chuyển ra phía Bắc ứng phó kịp.
Ngay từ đêm hôm sau 18/2/1979, tại sân bay Tân Sân Nhất, phía Việt Nam đã huy động tất cả các loại máy bay quân sự, vận tải và hành khách để chuyển quân từ phía Nam ra phía Bắc. Tiếng động cơ cất cánh liên tục suốt đêm. Những người lính thức trắng siết chặt súng trong tay im lặng ánh mắt đanh lại hướng về phương Bắc khi biết điều gì đang xảy ra với tổ quốc đồng bào mình. Và nhiều người trong số họ đó là chuyến bay cuối cùng vĩnh viễn không trở về nhà được nữa.
Trong vòng một tháng, hơn 20.000 binh lính Trung Quốc tử trận, rất nhiều lính Trung Quốc bị bắt. Trung Quốc với chiến lược biển người, biển xe tăng sau cùng đã thất bại thảm hại trước ý chí tinh thần và lòng yêu nước của người Việt Nam và buộc phải rút quân về nước. Việt Nam rất cao thượng, dù thắng trận nhưng không truy sát. Nhưng trên đường rút chạy, quân Trung Quốc được lệnh đang tâm tàn phá tất cả những cơ sở vật chất, nhà cửa, cầu đường với mục đích không cho người Việt Nam có cuộc sống bình thường khi chúng rút quân. Và cuộc rút quân đó là mở đầu của cuộc chiến tranh chấp biên giới kéo dài suốt 10 năm sau đó ở Vị Xuyên, Bản Giốc... với biết bao hy sinh xương máu âm thầm của nhiều người lính Việt Nam mà cho đến bây giờ ít được công bố con số thương vong.
Nguyên nhân của cuộc chiến tranh xâm lược 17/2/1979 này bắt nguồn từ việc ĐCSTQ dung túng cho Khmer Đỏ thảm sát 1/4 dân số Campuchia, trong đó có cả kiều bào Trung Quốc và Việt Nam. Vì để bảo vệ người dân Việt Nam tại vùng sát biên giới và ở Campuchia, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa quân đến Campuchia, quét sạch Khmer Đỏ và giải cứu người dân Campuchia thoát khỏi địa ngục. Sau đó, ĐCSTQ đã đưa quân tiến đánh Việt Nam, ‘dạy Việt Nam một bài học’, trả đũa Việt Nam đã tiêu diệt Khmer Đỏ.
Đến nay, Khmer Đỏ đã sụp đổ, tàn dư của tổ chức này cũng đã được giao cho Tòa án quốc tế xét xử. Điều này chứng minh rằng, việc Đặng Tiểu Bình phát động cuộc chiến tranh ở biên giới Việt Nam, không chỉ là thảm bại về mặt quân sự, mà còn đại bại về chính trị.
Đặng Tiểu Bình chủ trương đưa quân tiến đánh Việt Nam, thực tế là có mục đích riêng, muốn thông qua việc điều binh khiển tướng từ đó giành được quyền lực quân sự từ tay Chủ tịch Hoa Quốc Phong, sau đó lật đổ Hoa Quốc Phong độc chiếm bá quyền. Chiêu dương đông kích tây này cũng là một loại thủ đoạn thường thấy trong đấu đá quyền lực chính trị Trung Quốc từ xưa đến nay. Đáng tiếc là Hoa Quốc Phong không phát hiện ra điều này nên đã rơi vào cái bẫy của Đặng Tiểu Bình. Sự xảo quyệt của Đặng không khác gì Tư Mã Ý thời Tam Quốc.
Năm 1989, khi giữ chức Chủ tịch Quân ủy Trung ương, Đặng Tiểu Bình đã điều động 1/3 quân chủ lực với tổng cộng 300.000 quân tiến vào Bắc Kinh nổ súng đàn áp những người dân thành thị và học sinh sinh viên tay không tấc sắt, gây nên cuộc đàn áp phong trào dân chủ đẫm máu nhất trong lịch sử Trung Quốc: Sự kiện Lục Tứ - Thiên An Môn. Theo mệnh lệnh cực đoan của Đặng, quân đội ĐCSTQ trang bị xe tăng tàn bạo cán người, dùng súng máy bắn quét khiến máu nhuộm đỏ quảng trường Thiên An Môn, xác người chất thành đống. Sự kiện Lục Tứ quả thực khiến cả thế giới phải chấn động.
“Giết 200 ngàn người, đổi lấy 20 năm ổn định”. Đây là câu “danh ngôn” tâm đắc mà Đặng Tiểu Bình đưa ra trong khoảng thời gian diễn ra vụ thảm sát năm 1989. Câu “danh ngôn” này trên bề mặt là vì để ổn định quốc gia, nhưng mục đích thực tế là để ổn định chính quyền. Câu “danh ngôn” này còn một hàm ý khác, liên quan đến dục vọng cá nhân của ông ta, ít nhất để cho họ Đặng sống yên ổn những năm tháng cuối đời.
Khi ra lệnh cho học sinh sinh viên tôn trọng cúi rạp chào, Đặng Tiểu Bình cảm thấy rất thích thú, thoả mãn. Nhưng khi nghe họ hô “đả đảo Đặng Tiểu Bình” thì hắn ta trở nên sôi sục giận dữ. Nắm quyền lực trong tay, gã chỉ vì những hỷ nộ của bản thân mà tùy tiện sinh sát. Để được sống yên ổn những năm cuối đời, và cái giá để đổi lấy điều đó chính là hàng chục ngàn người đầu rơi máu chảy, hàng trăm ngàn người bị giam giữ và hàng triệu người bị bức hại. Chủ mưu gây ra cuộc tàn sát ngày 4/6 tại Thiên An Môn, cái tên Đặng Tiểu Bình đã bị đóng đinh kiên cố trên cây trụ dã man ô nhục của lịch sử.
Trước ngày 4/6, khoảng giữa tháng 5/1989, Tổng Bí thư ĐCSTQ Triệu Tử Dương đã đến gặp Đặng Tiểu Bình, đề xuất đối thoại với học sinh để có thể hai bên hiểu nhau hơn. Đặng đáp lại rằng: “Tôi đang cảm thấy vô cùng mệt mỏi, tai ù, đầu óc không suy nghĩ gì được, lời ông nói tôi cũng không nghe rõ.” Lúc đó ông này diễn lại độc chiêu “Tư Mã Ý giả bệnh lừa Tào Sảng” trong thời Tam Quốc, nhằm đối phó với ông Triệu Tử Dương. Trên thực tế, Đặng Tiểu Bình dựa vào khởi nghĩa vũ trang mà gây dựng sự nghiệp, nhờ vào lực lượng vũ trang ĐCSTQ giành chính quyền, một khi gặp phản đối, thì điều đầu tiên hắn nghĩ tới chính là đàn áp bạo lực là giải pháp nhanh gọn và ngắn nhất.
Ngay sau phong trào của học sinh sinh viên mùa đông năm 1986, Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố, chúng ta không ngại đổ máu để dẹp tan các cuộc biểu tình của sinh viên, cuối cùng sẽ khiến chúng biến mất. Phát ngôn sặc mùi máu của ông này thật sự khiến người ta ghê sợ ! (Sau này chiến lược đàn áp bắt bớ thủ tiêu cũng được áp dụng đối với phong trào sinh viên Hồng Kông).
Về sau, hễ thấy học sinh sinh viên xuống đường biểu tình, Đặng Tiểu Bình lập tức mưu tính giới nghiêm hoặc thiết quân luật để kiểm soát, trong tâm thức lúc nào cũng cầm chặt báng súng. Chỉ cần tóm lược lại sự kiện Lục Tứ, cũng đủ để hình dung về một đời chém giết của ông ta. Trước khi chết, Đặng Tiểu Bình còn căn dặn lại: “Không lưu lại tro cốt, toàn bộ rắc xuống biển.” Hành động này trên bề mặt thì là học theo Chu Ân Lai, nhưng thực tế là sợ thi hài bị làm nhục. Chu Ân Lai là sợ Mao Trạch Đông, còn Đặng Tiểu Bình chính là sợ nhân dân làm nhục thi thể của mình.
Sau sự kiện Lục Tứ, hai tay Đặng Tiểu Bình nhuộm đầy máu của nhân dân. Hắn ta muốn xóa đi chuyện này, đã từng mượn lời con gái mình để nói ngụ ý rằng: “Tôi cũng là con dân của Trung Quốc, tôi cũng yêu mọi người dân một cách sâu sắc.” Có người nghe xong đã hỏi lại: “Con cái sát hại cha mẹ, đây là thứ đạo lý gì trên đời? Ai cũng biết rằng, từ xưa đến nay sát hại cha mẹ là đại tội trái với ý trời, không thể tha thứ được.”
Sau khi Mao Trạch Đông chết, Đặng Tiểu Bình do bất lợi nên ra sức phủ định Cách mạng Văn hóa. Tuy nhiên phủ định Cách mạng Văn hóa cũng chỉ là cái cớ, thực chất hắn ta muốn sửa đổi Hiến pháp, thủ tiêu đi “bốn quyền lợi tự do” của người dân, cuối cùng tiến đến thủ tiêu quyền lợi bãi công của công nhân. Việc Đặng Tiểu Bình chối bỏ Cách mạng Văn hóa, có thể nói chính là thẳng tay tước đi quyền lợi dân chủ của người dân.
ĐCSTQ khi mới bắt đầu đã tuyên bố “giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo”, có vấn đề gì phát sinh là họ bãi công, đối kháng với chính phủ quốc dân đương thời. Nhưng đến 30 năm sau khi ĐCSTQ nắm quyền, chính họ lại “lập pháp” nhằm thủ tiêu quyền lợi bãi công của công nhân. Điều này minh chứng rằng, chính quyền ĐCSTQ đã biến thể trở thành một chế độ chuyên chế, độc tài, phản động và tàn ác hơn bất kỳ chính quyền nào khác.
Có người hy vọng Trung Quốc tiến tới dân chủ hóa và phó thác vào Đặng Tiểu Bình. Trong khi đó cựu Tổng Bí thư ĐCSTQ Triệu Tử Dương lúc còn sống đã thẳng thắn nhận định trong phần ghi âm rằng: “Đặng Tiểu Bình nói về dân chủ chỉ là những lời đạo đức giả và lừa gạt”.
Lại có người bình luận: Đặng Tiểu Bình mới là Hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc. Trên thực tế, Hoa Quốc Phong đã kết thúc nền chính trị chuyên chế cực đoan kiểu Mao Trạch Đông, bước đầu mở ra hình thế dân chủ trong Đảng. Nhưng do hoàn cảnh bất thường, trong vài năm, Đặng Tiểu Bình dùng thủ đoạn triệt tiêu Hoa Quốc Phong, ngang tàng khôi phục hình thức chính trị chuyên chế cực đoạn kiểu Mao Trạch Đông. Đặng tự xưng là “thế hệ hạt nhân” thứ hai kế tục sự nghiệp của Mao Trạch Đông, và hầu hết mọi việc đều do hắn ta quyết định. (Nhưng sau này, Tập Cận Bình mới thực sự chủ trương tham vọng là Hoàng đế quyền uy không nhiệm kỳ của Trung Hoa Đại lục).
Mùa xuân năm 1992, Đặng Tiểu Bình 88 tuổi, đột nhiên làm theo Mao Trạch Đông diễn vở kịch đi tuần phía nam. Lúc này do bất mãn với việc Giang Trạch Dân và Lý Bằng nắm quyền chính trị, nhận thấy họ quá thiên về cánh tả nên đã xướng ra phe ánh hữu, mục đích chính thực ra để phòng phe cánh tả. Đặng Tiểu Bình khi tuần tra Quảng Đông rộng lớn, vừa đi vừa chửi, buông ra những lời ám chỉ nặng nề: “Kẻ nào không cải cách, kẻ đó sẽ rớt đài.”
Có người hiểu rõ tình hình tiết lộ: Thời điểm đó Đặng Tiểu Bình âm mưu hạ bệ Giang Trạch Dân và Lý Bằng. Nhưng Giang và Lý đề phòng vô cùng chặt chẽ, khi đó Đặng Tiểu Bình không có quyền hành, đến chức Chủ tịch Quân ủy cũng không đạt được; thêm nữa sau khi đi tuần phía nam trở về Bắc Kinh thì cảm thấy thân thể khó chịu, sức khỏe suy kiệt, nên có muốn can dự vào cục diện chính trị cũng lực bất tòng tâm.
Con người thật, dã tâm và tội ác của Đặng Tiểu Bình ghê tởm rõ như ban ngày như thế - không chỉ với Việt Nam mà đối với nhân dân Trung Quốc - Thế mà ở Việt Nam lại cho xuất bản sách vinh danh ca ngợi: “Đặng Tiểu Bình - Một Trí Tuệ Siêu Việt” như một danh nhân, một bậc lỗi lạc của thế giới ??
Sau tròn 40 năm đằng đẵng - thật xúc động - đây là lần đầu tiên các báo và người dân được viết thật hết về cuộc xâm lược của quân Trung Quốc. Linh hồn người lính và người dân Việt Nam đã hy sinh, chết trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc đó lần đầu tiên ấm lòng nơi chín suối.
Vâng ! Xúc động không chỉ là được nói lên sự thật - mà xúc động vì một sự chuyển hướng kip xu thế - dù có trễ - để có thể thoát Trung - vì nước vì dân - Ước mơ của biết bao nhiêu lớp người và thế hệ Việt Nam nhiều thập kỷ qua.

- (Viết dựa trên phân tích Trần Phá Không - Nhà bình luận chính trị Trung Quốc, cùng các tư liệu cuộc chiến chống Trung Quốc một thời không quên). 

ƯỚC GÌ ĐÓ LÀ XÃ LUẬN BÁO NHÂN DÂN



Cột mốc số O ( 17/2/1979 - 17/2/2021 )

 ĐỪNG TỰ MÌNH QUÊN LÃNG CHÍNH MÌNH Nguyen Ngoc Chu

.


1. Việt Nam đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lược tháng 2/1979. Minh chứng hùng hồn là LỜI TỰ THÚ NHẬN CỦA TÊN GIẶC GIÀ ĐẶNG TIỂU BÌNH:
"Đánh lần này vũ khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là 5 đánh 1, 6 đánh 1. Chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp mấy lần, thậm chí 6 đánh 1, 7 đánh 1…" "…thương vong của chúng ta gấp 4 lần so với Việt Nam” (Đặng Tiểu Bình, Hội nghị quân chính nội bộ ngày 16/3/1979).
2. Hàng năm cần long trọng kỷ niệm ngày 17/2/1979 để tưởng nhớ hàng vạn đồng bào và chiến sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc.
3.
Xin thêm một lần nhắc lại bài hát “Valentine Cột Mốc Số 0” của nhạc sỹ Trần Bắc Hải qua giọng ca da diết của NSƯT Hồng Vy - như lời biết ơn các Anh hùng Liệt sỹ đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược tháng 2/1979:
Lời của "VALENTINE CỘT MỐC SỐ 0" có xuất xứ từ bài thơ VALENTINE DAY
Anh đã có một ngày
Valentine Day
khi chia tay người yêu
đợt rét cuối cùng
đêm mùa Đông
ga Hàng cỏ
không hoa
không nụ hôn
chỉ hai bàn tay
đan nhau bíu vá
cố níu con tàu
chậm lăn bánh
về phía biên cương
chỉ còn ánh mắt
xuyên suốt đêm đông
dõi về phía sau
mảnh mai
người bạn gái
Lạng sơn
Km số 0
17 tháng 2 năm 1979
Anh đã sống 3 ngày
Valentine
ngọt ngào
yên ắng
không biết
đó l;à 3 ngày Valentine cuối cùng
của người lính
yêu
chưa từng biết nụ hôn
Đất của cha ông
không thể mất một gang
giặc Tàu tràn sang
anh đã lấy thân mình
cản ngàn quân xâm lược
dũng cảm hy sinh
chưa một lần đích thực
biết ngày
Valentine Day