Translate

Thứ Năm, 18 tháng 2, 2021

Chồng cây !

 

Nghé mắt mà xem cây cụ trồng Mầm non vất vã to khiếp không
Biết đâu : non cây " già " hơn cả cụ
Đấy nà : Dời cây kheo khéo chồng

Trồng cây
Nguyễn Thông.
Thiên hạ đang phàn nàn, chê cười, điều ra tiếng vào, chán ặt về chuyện cụ chủ tịch nước trồng cây. Cụ đi thăm Hoàng thành Thăng Long, viếng các "tiên đế" (lần đầu tiên báo chí truyền thông, có nhẽ được sự chỉ đạo, dùng từ tiên đế, thì cũng là vua cả mà), sau đó trồng cây. Đây là thứ "hủ tục" không thể thiếu của các nhà lãnh đạo, quan chức bự thời nay.
Tại sao người ta chán? Vì nhiều lẽ. Chỉ riêng ngó cái cây được trồng đã chán, lại thêm nhà vua rất thiếu gương mẫu trong phòng chống dịch đang cực kỳ căng thẳng, nhất quyết không đeo khẩu trang. Cụ đã nêu một tấm "gương" xấu, rất xấu về cả trồng cây lẫn phòng chống dịch bệnh.

Chuyện trồng cây, tôi đã từng viết dài về điều này, chỉ xin trích lại ít dòng có liên quan:
Nhắc tới việc trồng cây, không biên vài chữ về chuyện các nhà lãnh đạo trồng cây thì quả thật thiếu sót. Lâu lâu, dịp tết hoặc đi khai trương, khánh thành, về thăm nơi này nơi nọ, các ông bà ấy được đám lâu la kính cẩn mời đóng vai long trọng viên trồng cây kỷ niệm. Ừ thì trồng cây là tốt, có ai bảo xấu đâu, chỉ có điều bao nhiêu lời cụ Hồ, bao nhiêu sự gương mẫu của cụ, họ sổ toẹt hết.
Không thể hiểu nổi, làm to đến hàng nguyên thủ, tứ trụ triều đình, thượng thư, phụ mẫu, kiến thức có phải dạng i tờ đâu mà cứ nhắm mắt làm liều. Đám lâu la trao xẻng thì cầm, bảo xúc đất thì xúc, đưa bô doa bảo tưới thì tưới, cứ diễn như con rối. Lại còn quần là áo lượt, giày da bóng lộn, cổ cồn ca vát, xẻng cuốc tua xanh tua đỏ, khi đương sự trồng có bọn sai nha xúm đông xúm đỏ chiêm ngưỡng, vỗ tay, bọn quay phim chụp ảnh nhảy như choi choi ghi lại khoảnh khắc lịch sử. Trồng xong còn dựng bia đá ghi danh cho hậu thế chiêm ngưỡng. Trông không khác gì cái sân khấu tuồng, mà diễn viên chính chẳng phải ai khác chính là các ngài vua chúa thời nay.
Giời ạ, nếu chỉ có thế thôi thì vẫn còn thể tất được, tặc lưỡi thông cảm, các ông các bà ấy sính hình thức, ưa làm màu, không trọng thực chất, cũng chả chết ai, chỉ hơi ngứa mắt tí. Khổ nỗi, cứ nhìn kỹ mà xem, trăm lần như một, cây được trồng, cây nào cây ấy đều cỡ đại thụ, có cây cả vòng tay người ôm, có cây cành lá sum suê, rễ rủ lòng thòng, có cây chỉ nhác qua cũng biết niên của nó chắc còn cao hơn cả tuổi người trồng. Thế mà cứ nhắm mắt nhắm mũi đào đào bới bới, xẻng xẻng cuốc cuốc, tưới ra tưới vào, mặt vênh lên, cười cười nói nói.

Họ làm gì chẳng biết những cây cổ thụ cao niên ấy được bứng từ chỗ khác vào, nó to như thế bị bứng đi thì làm sao còn rễ cái để trụ trong mưa gió bão bùng. Cắm thứ ấy xuống không khác gì đặt chiếc bẫy gieo mầm tai họa. Trồng cây kiểu vậy, vừa ngu si dốt nát, vừa tàn ác nhẫn tâm. Điều lạ là dư luận xã hội lên tiếng nhắc nhở không ít, họ vẫn cứ nhơn nhơn, nhắm mắt làm bừa. Nếu cụ Hồ có sống lại, chắc cụ cũng phải khổ sở bởi bọn hậu sinh này. Nói không quá đáng, chính đám lãnh đạo thích trồng cây to cũng phải chịu phần trách nhiệm về nạn phá rừng. Họ cứ tưởng (hoặc cố ý tưởng) họ trồng cây, thêm màu xanh đất nước, chứ thực chất là đầu têu làm mẫu trong việc hủy hoại thiên nhiên xứ này.

Hoàng thượng không biết lắng nghe những lời "trung ngôn nghịch nhĩ" thì ít nhất văn võ bá quan cũng phải biết tâu bày điều phải trái. Nhưng họ thiếu thứ quan trọng là tư cách của gián quan, họ hèn, chỉ cốt lo giữ cái thân bổng lộc của mình, kém cả đứa trẻ hô to "hoàng đế cởi truồng". Vua như thế, quan như thế, không chỉ tổn hại danh tiếng (nếu có) của triều đình, mà tai hại hơn, gây suy sụp cả vận mệnh quốc gia khi quyền lãnh đạo trong tay họ.
Hãy tỉnh ngộ và chấm dứt ngay thứ bi hài kịch trồng cây rất đáng chê cười. Xin nhớ rằng, nhìn vào tấm gương trồng cây, thiên hạ sẽ nghĩ thêm về thực chất con người.
Ảnh TTXVN: Chủ tịch nước trồng cây tại Hoàng thành Thăng Long mùng 6 tết Tân Sửu, 17.2.2021.
Thật.

Luật hải cảnh Trung Quốc làm tăng nguy cơ đụng độ ở Biển Đông

 > https://vietnamnet.vn/.../luat-hai-canh-trung-quoc-lam...

.
Đọc lại lịch sử xưa, đối chiếu, mới thấy Trung Hoa ngàn năm trước và hiện tại không có gì khác biệt, mặc dù vỏ bọc lúc là phong kiến, lúc là cộng sản, nhưng căn cơ vẫn là độc tài và mê cuồng bá quyền, sẵn sàng chà đạp bất kỳ ai ngăn cản tham vọng của họ.
Lịch sử đã qua, không chỉ để nhớ, mà còn để học biết đủ về nó. Ngày 17/2 hàng năm, người Việt vẫn nhắc nhau về ký ức đau thương và kinh hoàng, gây ra bởi một đế quốc hung tàn nằm cạnh đường biên giới. Nhưng hôm nay, lịch sử còn là lý do để mọi người nhìn kỹ hơn những gì đang đến, chuẩn bị cho những thảm kịch đang đến.
Những xung đột mới, có thể không đến từ đất liền, mà từ biển, đặc biệt từ ngày 1/2/2021, khi Luật Hải Cảnh của Trung Quốc có hiệu lực. Mơ hồ và bao trùm, luật này có 84 điều và 11 chương, cho phép các tàu hải cảnh Trung Quốc có quyền bắn, truy đuổi, bắt giữ… tất cả những tàu thuyền bị coi là vi phạm phía trong và trên vùng biển nằm trong quyền tài phán của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Nhưng cụ thể các nơi như vậy thì không được liệt kê. Hay nói cách khác, Bắc Kinh đang hợp pháp hóa chủ quyền đường chín đoạn của họ bằng vũ lực.
Cách nói mơ hồ này cũng đang gán cho việc cảnh sát biển Trung Quốc có quyền hạn kiểm soát cả ADIZ (vùng nhận dạng phòng không trên biển). Hơn nữa điều 12 của luật này còn tự cho phép các tàu hải cảnh có thể kiểm soát và ngăn chận các vụ đánh bắt, thu hoạch hải sản. Đây quả là cơn ác mộng của ngư dân Việt Nam, vì từ suốt nhiều thập niên qua, số tàu bị đâm, bị bắt và người chết vì các lực lượng từ nước Trung Quốc anh em trên biển Đông, dẫn đầu vẫn là ngư dân Việt.
Mà quả thật, không thể đoán, hay hiểu nổi, khi cuộc chiến 1979 kết thúc, sách giáo khoa Trung Quốc dạy rằng họ đã chiến thắng. Văn chương, kịch nghệ… của Trung Quốc được nhắc đến những chuyện này, nhưng ở Việt Nam, nơi thật sự đã đẩy lùi được cuộc xâm lược, thì chỉ có chút ít thông tin nơi sách giáo khoa, âm nhạc, hội họa… đề cập đến cuộc chiến tranh chống xâm lược của người dân Việt Nam, luôn bị cắt gọt kỹ lưỡng hay từ chối. Đến nay thì gần như xóa trắng.
Đặng Tiểu Bình, người chịu trách nhiệm hai cuộc xâm lăng đẫm máu 1979 và 1988 (Gạc Ma) thì được chính thức dịch sách, ca ngợi “Một trí tuệ siêu việt”, và lại còn tái bản. Còn tác phẩm Gạc Ma, Vòng tròn bất tử, nói về đảo bị cướp, về những người lính Việt Nam chết tức tưởi, thi hài không mang được về quê nhà, thì bị cắt, đình trệ, hơn mười năm chờ đợi rồi được phát hành, nhưng thu hồi ngay sau đó.
Chạnh lòng tự nghĩ. Có lẽ người Việt Nam không thiếu những người khao khát được sống, hành động và nối dài sự thật lịch sử, muốn không để cho máu xương cha ông bị đau tủi ở chốn vô danh. Nhưng điều đơn giản đó, không chỉ có lòng yêu nước là có thể làm được, hôm nay.
nguon Fb Khanh Nguyen

Thứ Tư, 17 tháng 2, 2021

NGƯỜI ĐI, LINH HỒN Ở LẠI ...

Tuấn Khanh
.

Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chén rượu hồng đây xin rót xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này

Chúng tôi chọn những ngày cuối năm để leo lên ngọn đồi lịch sử Charlie, bởi vào lúc này thời tiết không quá khắc nghiệt để lần mò được đến nơi. Mang theo trong chuyến đi, những thứ quan trọng nhất là rượu, hoa và nhang: quà cho những người mà thế hệ chúng tôi chưa từng biết mặt.
Máu xương người Việt…
Khác với việc thắp nhang ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nay nằm trong địa phận tỉnh Bình Dương, đường đi nghĩa trang không khó nhưng lại phải chịu sự dòm ngó và hạch hỏi của nhóm gác cổng do công an địa phương cắt đặt, còn đường đi đến đồi Charlie chỉ có núi rừng, vài tấm bảng chỉ đường phủ đầy bụi đỏ. Thi thoảng trên đường có bắt gặp vài người dân tộc Jarai hay Sedang.
Charlie là một chóp đồi cao nằm giữa ba huyện Sa Thầy, Đắk Tô và Ngọc Hồi, thuộc tỉnh Kon Tum. Đường đi đến đó cheo leo và trắc trở. Chúng tôi đoán là trước năm 1975, hầu hết cuộc chuyển quân đều dựa trên không vận mới có thể nhanh và an toàn. Người Việt trong vùng gọi là Sạc-Li, dựa theo âm tiếng Anh, mà trong chiến tranh Việt Nam, cứ điểm cao 900m so với mặt nước biển được quân đội đặt tên, tạo thành tuyến phòng thủ và quan sát khu vực ngã ba Đông Dương. Nơi đây còn là vùng bảo vệ cho sân bay quân sự Phượng Hoàng và bản doanh bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 22 Bộ binh ở Tân Cảng của miền Nam.
Việc đặt tiểu đoàn 11 nhảy dù Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trấn giữ ở đồi Charlie là một sự khó chịu vô cùng đối với quân Bắc Việt, vì mọi cuộc chuyển quân ở ngã ba Đông Dương hay từ Bắc vào, qua ngã này, đều có thể bị phát hiện. Cho nên, trong cuộc tổng tiến công năm 1972 của quân đội Bắc Việt, cùng với một phần của Mặt trận Giải phóng miền Nam, đồi Charlie là mục tiêu cần phải bị xóa sổ. Cái gai cần phải nhổ cho đường tiến quân thuận tiện từ Tây Nguyên xuống đồng bằng miền Nam.
Mùa hè 1972, người ta gọi đó là mùa hè đỏ lửa. Đỏ lửa là bởi sự nóng bức của thiên nhiên, cộng thêm súng đạn bay khắp nơi trong một cuộc tương tàn nhân danh giải phóng của chủ nghĩa cộng sản. Không có số liệu chính xác nào nói về thương vong của cả hai bên ở đồi Charlie, nhưng dựa trên phần sử liệu được công bố thì phía Việt Nam Cộng Hòa có tiểu đoàn 11 Song kiếm Trấn ải (tạm tính khoảng hơn 600 người) đối đầu với quân của sư đoàn 320 Bắc Việt (tạm tính khoảng gần hơn 7,000 người), chưa kể phía lực lượng Mặt trận Giải Phóng Miền Nam không được công bố, thì con số ít nhất thiệt mạng sau khi máy bay B-52 bỏ bom rải thảm tái chiếm, những thanh niên Việt Nam của cả hai bên thiệt mạng, ít ra cũng phải là 4,000 đến 5,000 người trong trận đó.
Điều đó, có nghĩa rằng chuyến đi mất gần ba tiếng di chuyển lên đến đỉnh đồi của chúng tôi, nơi đâu cũng có máu xương người Việt. Từng viên đá, từng khúc quanh, từng ngọn cây… chắc đều giữ lại phần bí mật nhất chưa bao giờ được kể lại về số phận không chỉ của từng con người, mà của một dân tộc phải chịu điêu linh vì cuộc chiến tranh màu lý tưởng cộng sản.
Ngọn đồi Charlie xanh mướt và lặng lẽ giữa thông xanh, trời mây và gió se sắt lạnh. Đầu ngõ vào cầu treo dẫn đến chân đồi, chính quyền địa phương đến hôm nay cũng chưa dám ghi rõ ràng về cuộc chiến này, mà chỉ đơn giản là “Di tích lịch sử của điểm cao 1015 Charlie và 1049 Delta” – khác với giọng điệu thường đắc thắng và kiêu ngạo sau 1975, khi mà những di tích thường có thêm các tấm bia ngợi ca sự anh dũng của quân đội Bắc Việt. Nhưng ở Charlie, mất mát quá lớn có thể là điều nhà cầm quyền ngại ngùng không muốn nhắc tới. Hàng năm không chỉ có những chuyến xe từ Bắc vào Charlie để viếng người thân sinh Bắc tử Nam, mà chính người miền Nam đứng trên ngọn đồi ấy cũng ngậm ngùi: Ai, điều gì… đã xô đẩy khiến cho máu xương Việt Nam chia lìa và chôn vùi thảm khốc đến vậy?
“Đi thăm ông Trung tá Bảo à?”
Chúng tôi đi xe máy, sáu người chở nhau và tận dụng mọi sức lực tay chân để có thể đến đỉnh đồi, trước khi trời sụp tối. Có đoạn phải vừa nổ máy xe, vừa đẩy, có đoạn vứt bớt đồ lại vì quá mệt, mang vác không nổi. Đoạn đường vừa tạm hết lầy sau mùa mưa, lại khô, trơn và nhiều ổ gà và đá vụn. Mọi người trong đoàn có lúc mệt đến mức hoa mắt, tay chân bủn rủn, thở không được vì không khí ngày càng loãng. Anh B., người khỏe nhất trong nhóm, có lúc đứng lại chắp tay và cầu nguyện “Đã đến được đây, mấy anh phải giúp tụi em đến nơi thắp hương mời rượu cho mấy anh”.
Đã 45 năm rồi. Những ngôi mộ, nếu có, thì giờ cũng đã um tùm cỏ lau. Thịt xương cũng đã là rêu bụi. Chiến địa đã trở thành rừng xanh bao phủ trên núi, ôm kín mọi nỗi lòng. Đó là chưa nói nhiều thế hệ đã đi qua, không biết, hoặc bị tuyên truyền bóp méo tin tức về những người lính Việt Nam Cộng Hòa ở đây. Vậy mà mấy lần, gặp một người Jarai hay Sedang, thấy chúng tôi hồng hộc thở trên đường, họ cười thân thiện và hỏi “đi thăm ông Trung tá Bảo à?”.
Lạ lùng. Sao họ lại biết Trung tá Bảo nhỉ? Thậm chí bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có tên Người ở lại Charlie cũng không nhắc gì về tên của người chỉ huy tiểu đoàn Song kiếm Trấn ải này. Dù sau khi tử trận ở Charlie, Trung tá Nguyễn Đình Bảo (1936-1972) được truy phong đại tá, nhưng dân trong vùng vẫn nhớ về một vị Trung tá, giữa hàng ngàn người đã gửi lại hình hài ở nơi này.
Người ở lại Charlie
Trận chiến Charlie diễn ra trong một tuần, dữ dội. Quân đội Bắc Việt được điều động tiến vào Nam, số trang bị và nhân lực được kể là gấp sáu lần quân Việt Nam Cộng Hòa trấn giữ. Một người lính miền Nam phải chống cự với 6-7 người lính miền Bắc. Pháo kích và tiến công biển người diễn ra cấp tập trong ba ngày đầu. Đạn pháo kích đã khiến Trung tá Nguyễn Đình Bảo tử trận vào ngày thứ hai (12-4-1972), các chỉ huy nối nhau thay quyền kiểm soát cũng tử trận liên tục.
Không chỉ tấn công mà mục tiêu của sư đoàn 320 còn là tiêu diệt cho được tiểu đoàn Song Kiếm Trấn Ải (theo nhà văn Phan Nhật Nam thì sau trận đồi Charlie, tiểu đoàn này mất 400 quân nhân) nên quân Bắc Việt bao vây và chặn đường mọi ngã. Thậm chí súng phòng không Bắc Việt còn được chuẩn bị để ngăn không cho trực thăng tiếp viện. Sau khi không còn đạn dược và lương thực, những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa còn lại đã rút lui, nhường đường cho tốp máy bay B-52 bỏ bom hủy diệt toàn bộ phần Sư đoàn 320 đang tràn lên ở đây. Charlie phút chốc thành bình địa, kể cả những bộ đội từ Bắc vào, cho đến những thân xác còn nằm lại của những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa.
Mọi nỗ lực tấn công hao tổn về con người và súng đạn của phía quân chính quy Bắc Việt hoàn toàn thất bại. Có lẽ vì vậy mà trong wikipedia Việt ngữ nói về Sư đoàn 320, chiến sử Charlie đã không được ghi lại cũng như cũng cố ý không nhắc tới, trong các mục viết ca ngợi danh tiếng của Sư đoàn này.
Nói về trận đánh đó, vùng đất đó, nhà văn Phan Nhật Nam có viết trong bài Người ở lại Charlie: “Bi kịch không riêng đối với những người lính Tiểu Đoàn 11 Dù, qua lần đi khuất của Cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo – Nhưng cũng là bi kịch của mỗi thân phận Người Miền Nam hiện thực qua hy sinh xả kỷ của Người Lính, sự chịu đựng âm thầm của Người Vợ-Đứa Con Người Lính. Nỗi Đau kia hằng mới vì Nỗi Đau Luôn Là Nỗi Đau Chung, cùng với những dấu tích kỳ diệu miên viễn của Tình Yêu trong đời sống trần thế giới hạn của nhân sinh”. (trích)
Cuối năm 1972, quân đội Việt Nam Cộng Hòa có tổ chức dựng bia tưởng niệm trên đỉnh đồi để tưởng các quân nhân đã hy sinh trong cuộc chiến, và ghi nhớ nơi tử trận của Đại tá Nguyễn Đình Bảo. Nhưng rồi sau 1975, chính quyền địa phương theo lệnh từ Hà Nội đã cho đập phá tất cả. San bằng mọi thứ. Nhưng đáng ngạc nhiên, là chính nhà cầm quyền Bắc Việt cũng không hề dựng bất kỳ bia tưởng niệm nào cho hàng ngàn người lính của họ đã thiệt mạng ở nơi này.
Mãi cho đến giữa thập niên 1990, những đoàn thân nhân từ miền Bắc vào để viếng, nơi con em của họ đã để lại tuổi xuân trên ngọn đồi Charlie mới góp tiền cùng nhau dựng một bàn thờ, hương khói. Còn về những người miền Nam, không biết ai đó đã ùn một đống đất, tựa như một gò nhỏ, hay có thể là một nấm mộ tượng trưng cho những ai lên thắp hương cho Đại tá Nguyễn Đình Bảo và những quân nhân Việt Nam Cộng Hòa. Và dù rất khiêm tốn, không có bia hay chữ ghi chú nào, nhưng mọi người đều biết nếu thắp nhang cho những người miền Nam, thì đến đó.
Từ đỉnh đồi Charlie nhìn bao quát xuống phía dưới. Tháng Tư năm 1972, hàng ngàn quân Bắc Việt giấu mình để từ đó tấn công lên đỉnh đồi
Giải oan cho cuộc biển dâu này.
Khi cả nhóm loay hoay trên ngọn đồi, lúc chiều xuống đậm rồi, vẫn không biết là nơi nào để hướng đến, thì chính một người trẻ tuổi địa phương bất ngờ có mặt xuất hiện trên đó chỉ giúp, “nơi của ông Bảo”, hay nơi để viếng những người cùng ông ngã xuống, cũng vậy.
Hương bay theo gió, những cánh hoa vàng phất phơ trên cỏ. Tôi chợt nhớ đến phần cuối trong Đồi gió hú của Emily Bronte, rằng “dưới những cành hoa phất ấy, những người nằm dưới nấm mộ ấy có thật sư yên nghỉ không?”. Không có ai trả lời tôi suy nghĩ đó, chỉ có tiếng gió rít qua từng hồi như tiếng thở than.
Con đường xuống núi nguy hiểm và khó khăn hơn cả lúc đi lên, vì chung quanh là bóng tối, đường lầy với cát khô và đầy khúc quanh đốc xuống thẳng đứng. Nhưng bên cạnh chuyện việc lo lắng đi ra, ai cũng mang theo một cảm giác kỳ lạ. Trận chiến Charlie lại sống động như mới hôm qua, những người Việt Nam nổ súng vào nhau như vẫn còn nghe tiếng đạn bay. Rừng núi âm u như vẫn chực chờ những cái chết vô định. Chúng tôi cảm nhận được hết mọi thứ và ngồi lại, kể với nhau khi ra đến bên ngoài.
Ký ức thường rồi dần sẽ phai mờ, sự khốc liệt của chiến tranh, máu và nước mắt rồi cũng khô cạn. Nhưng anh hùng tử, khí hùng bất tử, cái chết vì chính nghĩa bảo vệ miền đất tự do của những thanh niên miền Nam Việt Nam quyết bảo vệ vùng đất của mình vẫn được nhớ đến, vẫn phảng phất trong hương gió núi vùng Dakto, trong lời hát, bất ngờ hiện ra vào chiều sẩm tối ở đồi Charlie, khiến chúng tôi gai người – sự linh thiêng của núi sông là đây, của cha anh là đây, của nghịch cảnh tương tàn vì tham vọng cơ đồ là đây.
V., một người trong nhóm thắp hương trên đỉnh đồi vào lúc chiều tà, từng người trong nhóm đi viếng đều có lời cầu nguyện riêng của mình trong phút giây thiêng liêng đó.
Đi trong đoàn có hai sư thầy trẻ, vừa là bạn tín ngưỡng, vừa là người đồng chí hướng. Nhang được đốt lên, hoa được đặt xuống mặt đất bằng. Chai rượu trắng được rót xuống cùng những lời cầu nguyện khác nhau. Anh V., đứng thẳng dáng gầy, tay chắp nhang ngang mày im lặng. Sự tôn nghiêm của anh làm hơi rượu như nồng hơn, sẻ chia như những vần thơ của Tô Thùy Yên:
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chén rượu hồng đây xin rót xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Giờ thì không có ai là kẻ thù, cần diệt trừ và không có nơi chốn nào, cần phải bị giải phóng. Chỉ có những con người nằm lại với nhau, xương thịt nằm lại trên cùng một mảnh đất, cùng ngửa mặt lên bầu trời đêm của ngọn đồi Charlie để thấy thương đau là tên gọi chung của tất cả. Tất cả thịt xương Việt Nam đã đến, đã hư không, chỉ còn linh hồn ở lại.
Chắc chắn rồi chúng tôi sẽ trở lại, rót rượu cho mọi người, không phân biệt là ai. Vì như có một lời hứa âm vang trong tim với những con người đã đến,
Tháng 12-2020
Nhạc sĩ Tuấn Khanh 

DÃ TÂM THÂM ĐỘC CỦA ĐẶNG TIỂU BÌNH

 

.
Sau một thời gian bí mật âm thầm chuyển quân, vũ khí, xe tăng và pháo hạng nặng áp sát biên giới mà hầu như phía Việt Nam không lường được sẽ bị tấn công vào 17/2 (bộ đội và người dân biên giới ngay khi nghe đạn pháo nổ rung chuyển khắp dải biên giới cũng thực sự không thể nghĩ rằng Trung Quốc lại có thể tấn công với qui mô chiến tranh lớn chưa từng có với một nước vốn là bè bạn thân thiết như vậy). Đúng 5 giờ sáng ngày thứ Bảy 17/2/1979, để phía Việt Nam trở tay ko kịp, Trung Quốc đã chọn thời điểm bất ngờ nhất, không kịp chuẩn bị, đề phòng đối với người dân và người lính Việt Nam, Đặng Tiểu Bình đã đồng loạt bất ngờ cho nã pháo cấp tập rền vang và đưa 9 binh đoàn gồm 600.000 binh lính cùng xe tăng thiết giáp của Trung Quốc tham chiến tấn công xâm lược Việt Nam trên toàn dải biên giới giết hại nhiều chục ngàn người dân Việt Nam vô tội, tàn phá biết bao làng mạc thị trấn Việt Nam.
Về mặt vũ khí, chúng triển khai tràn qua biên giới ngay sáng 17/2 đến 550 xe tăng hiện đại nhất lúc bấy giờ, 480 khẩu pháo hạng nặng, 1.260 dàn hỏa tiễn tầm xa và súng cối chưa kể vô số đại liên, trung liên cùng hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 948 máy bay đầy bom và tên lửa sẵn sàng túc trực tham chiến phía sau. Điều này minh chứng chắc chắn đây không phải là sự chuẩn bị cho cuộc tấn công chớp nhoáng, phủ đầu, ‘dạy bài học’ như Đặng Tiểu Bình tuyên bố sau đó mà thực chất là một cuộc chiến tranh xâm lược tổng lực qui mô lớn nhất từ sau chiến tranh Triều Tiên được hoạch định, tính toán rất kỹ, chuẩn bị bí mật khá lâu trước đó.
Rất nhiều người dân, phụ nữ, trẻ em và người lính Việt Nam trúng loạt đạn pháo, đạn xe tăng, đạn đại liên, trung liên và AK của quân Trung Quốc trong đợt tấn công đầu tiên từ tờ mờ sáng, trước khi chết ngã gục xuống cũng không bao giờ tin là mình bị giết chết tức tưởi dưới tay quân đội Trung Quốc anh em môi hở răng lạnh được báo đài lặp đi lặp lại trước giờ.
Lính Trung Quốc đánh sang Việt Nam đã được lệnh dùng chính sách "3 diệt" để khủng bố, đó là giết những cán bộ nhà nước, những người già, trẻ em không kịp chạy trốn, hay thả thuốc độc xuống nguồn nước, phá huỷ tất cả bệnh viện, cầu cống, nhà máy, nhà ở. Mục đích của chúng là không để cho bất cứ ai có thể quay trở về biên giới sinh sống như trước.
Đối phó với dư luận trong nước và quốc tế, sau khi thăm Mỹ chính thức 1/1979 và hội đàm riêng với Tổng thống Mỹ Jimmy Cater để có sự ủng hộ từ Mỹ nhưng bất thành, Đặng Tiểu Bình chỉ đạo Ban Tuyên Giáo và Bộ Ngoại Giao Trung Quốc tuyên truyền dối trá vu cáo cho Việt Nam gây hấn trước, gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc tố cáo trắng trợn Việt Nam đánh lấn chiếm Trung Quốc và gọi cuộc xâm lược là Chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam (对越自卫还击战 - ‘Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến’), ‘dạy con hổ Việt Nam một bài học’, nhưng thực chất âm mưu với chiến thuật dàn quân biển người của quân đội Trung Quốc là đánh nhanh đánh thẳng về Hà Nội trong thời gian sớm nhất vì Đặng Tiểu Bình biết rõ các cánh quân chủ lực thiện chiến cúa Việt Nam đang tập trung ở Cam Pu Chia và sát biên giới Tây Nam ko thể nào chuyển ra phía Bắc ứng phó kịp.
Ngay từ đêm hôm sau 18/2/1979, tại sân bay Tân Sân Nhất, phía Việt Nam đã huy động tất cả các loại máy bay quân sự, vận tải và hành khách để chuyển quân từ phía Nam ra phía Bắc. Tiếng động cơ cất cánh liên tục suốt đêm. Những người lính thức trắng siết chặt súng trong tay im lặng ánh mắt đanh lại hướng về phương Bắc khi biết điều gì đang xảy ra với tổ quốc đồng bào mình. Và nhiều người trong số họ đó là chuyến bay cuối cùng vĩnh viễn không trở về nhà được nữa.
Trong vòng một tháng, hơn 20.000 binh lính Trung Quốc tử trận, rất nhiều lính Trung Quốc bị bắt. Trung Quốc với chiến lược biển người, biển xe tăng sau cùng đã thất bại thảm hại trước ý chí tinh thần và lòng yêu nước của người Việt Nam và buộc phải rút quân về nước. Việt Nam rất cao thượng, dù thắng trận nhưng không truy sát. Nhưng trên đường rút chạy, quân Trung Quốc được lệnh đang tâm tàn phá tất cả những cơ sở vật chất, nhà cửa, cầu đường với mục đích không cho người Việt Nam có cuộc sống bình thường khi chúng rút quân. Và cuộc rút quân đó là mở đầu của cuộc chiến tranh chấp biên giới kéo dài suốt 10 năm sau đó ở Vị Xuyên, Bản Giốc... với biết bao hy sinh xương máu âm thầm của nhiều người lính Việt Nam mà cho đến bây giờ ít được công bố con số thương vong.
Nguyên nhân của cuộc chiến tranh xâm lược 17/2/1979 này bắt nguồn từ việc ĐCSTQ dung túng cho Khmer Đỏ thảm sát 1/4 dân số Campuchia, trong đó có cả kiều bào Trung Quốc và Việt Nam. Vì để bảo vệ người dân Việt Nam tại vùng sát biên giới và ở Campuchia, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa quân đến Campuchia, quét sạch Khmer Đỏ và giải cứu người dân Campuchia thoát khỏi địa ngục. Sau đó, ĐCSTQ đã đưa quân tiến đánh Việt Nam, ‘dạy Việt Nam một bài học’, trả đũa Việt Nam đã tiêu diệt Khmer Đỏ.
Đến nay, Khmer Đỏ đã sụp đổ, tàn dư của tổ chức này cũng đã được giao cho Tòa án quốc tế xét xử. Điều này chứng minh rằng, việc Đặng Tiểu Bình phát động cuộc chiến tranh ở biên giới Việt Nam, không chỉ là thảm bại về mặt quân sự, mà còn đại bại về chính trị.
Đặng Tiểu Bình chủ trương đưa quân tiến đánh Việt Nam, thực tế là có mục đích riêng, muốn thông qua việc điều binh khiển tướng từ đó giành được quyền lực quân sự từ tay Chủ tịch Hoa Quốc Phong, sau đó lật đổ Hoa Quốc Phong độc chiếm bá quyền. Chiêu dương đông kích tây này cũng là một loại thủ đoạn thường thấy trong đấu đá quyền lực chính trị Trung Quốc từ xưa đến nay. Đáng tiếc là Hoa Quốc Phong không phát hiện ra điều này nên đã rơi vào cái bẫy của Đặng Tiểu Bình. Sự xảo quyệt của Đặng không khác gì Tư Mã Ý thời Tam Quốc.
Năm 1989, khi giữ chức Chủ tịch Quân ủy Trung ương, Đặng Tiểu Bình đã điều động 1/3 quân chủ lực với tổng cộng 300.000 quân tiến vào Bắc Kinh nổ súng đàn áp những người dân thành thị và học sinh sinh viên tay không tấc sắt, gây nên cuộc đàn áp phong trào dân chủ đẫm máu nhất trong lịch sử Trung Quốc: Sự kiện Lục Tứ - Thiên An Môn. Theo mệnh lệnh cực đoan của Đặng, quân đội ĐCSTQ trang bị xe tăng tàn bạo cán người, dùng súng máy bắn quét khiến máu nhuộm đỏ quảng trường Thiên An Môn, xác người chất thành đống. Sự kiện Lục Tứ quả thực khiến cả thế giới phải chấn động.
“Giết 200 ngàn người, đổi lấy 20 năm ổn định”. Đây là câu “danh ngôn” tâm đắc mà Đặng Tiểu Bình đưa ra trong khoảng thời gian diễn ra vụ thảm sát năm 1989. Câu “danh ngôn” này trên bề mặt là vì để ổn định quốc gia, nhưng mục đích thực tế là để ổn định chính quyền. Câu “danh ngôn” này còn một hàm ý khác, liên quan đến dục vọng cá nhân của ông ta, ít nhất để cho họ Đặng sống yên ổn những năm tháng cuối đời.
Khi ra lệnh cho học sinh sinh viên tôn trọng cúi rạp chào, Đặng Tiểu Bình cảm thấy rất thích thú, thoả mãn. Nhưng khi nghe họ hô “đả đảo Đặng Tiểu Bình” thì hắn ta trở nên sôi sục giận dữ. Nắm quyền lực trong tay, gã chỉ vì những hỷ nộ của bản thân mà tùy tiện sinh sát. Để được sống yên ổn những năm cuối đời, và cái giá để đổi lấy điều đó chính là hàng chục ngàn người đầu rơi máu chảy, hàng trăm ngàn người bị giam giữ và hàng triệu người bị bức hại. Chủ mưu gây ra cuộc tàn sát ngày 4/6 tại Thiên An Môn, cái tên Đặng Tiểu Bình đã bị đóng đinh kiên cố trên cây trụ dã man ô nhục của lịch sử.
Trước ngày 4/6, khoảng giữa tháng 5/1989, Tổng Bí thư ĐCSTQ Triệu Tử Dương đã đến gặp Đặng Tiểu Bình, đề xuất đối thoại với học sinh để có thể hai bên hiểu nhau hơn. Đặng đáp lại rằng: “Tôi đang cảm thấy vô cùng mệt mỏi, tai ù, đầu óc không suy nghĩ gì được, lời ông nói tôi cũng không nghe rõ.” Lúc đó ông này diễn lại độc chiêu “Tư Mã Ý giả bệnh lừa Tào Sảng” trong thời Tam Quốc, nhằm đối phó với ông Triệu Tử Dương. Trên thực tế, Đặng Tiểu Bình dựa vào khởi nghĩa vũ trang mà gây dựng sự nghiệp, nhờ vào lực lượng vũ trang ĐCSTQ giành chính quyền, một khi gặp phản đối, thì điều đầu tiên hắn nghĩ tới chính là đàn áp bạo lực là giải pháp nhanh gọn và ngắn nhất.
Ngay sau phong trào của học sinh sinh viên mùa đông năm 1986, Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố, chúng ta không ngại đổ máu để dẹp tan các cuộc biểu tình của sinh viên, cuối cùng sẽ khiến chúng biến mất. Phát ngôn sặc mùi máu của ông này thật sự khiến người ta ghê sợ ! (Sau này chiến lược đàn áp bắt bớ thủ tiêu cũng được áp dụng đối với phong trào sinh viên Hồng Kông).
Về sau, hễ thấy học sinh sinh viên xuống đường biểu tình, Đặng Tiểu Bình lập tức mưu tính giới nghiêm hoặc thiết quân luật để kiểm soát, trong tâm thức lúc nào cũng cầm chặt báng súng. Chỉ cần tóm lược lại sự kiện Lục Tứ, cũng đủ để hình dung về một đời chém giết của ông ta. Trước khi chết, Đặng Tiểu Bình còn căn dặn lại: “Không lưu lại tro cốt, toàn bộ rắc xuống biển.” Hành động này trên bề mặt thì là học theo Chu Ân Lai, nhưng thực tế là sợ thi hài bị làm nhục. Chu Ân Lai là sợ Mao Trạch Đông, còn Đặng Tiểu Bình chính là sợ nhân dân làm nhục thi thể của mình.
Sau sự kiện Lục Tứ, hai tay Đặng Tiểu Bình nhuộm đầy máu của nhân dân. Hắn ta muốn xóa đi chuyện này, đã từng mượn lời con gái mình để nói ngụ ý rằng: “Tôi cũng là con dân của Trung Quốc, tôi cũng yêu mọi người dân một cách sâu sắc.” Có người nghe xong đã hỏi lại: “Con cái sát hại cha mẹ, đây là thứ đạo lý gì trên đời? Ai cũng biết rằng, từ xưa đến nay sát hại cha mẹ là đại tội trái với ý trời, không thể tha thứ được.”
Sau khi Mao Trạch Đông chết, Đặng Tiểu Bình do bất lợi nên ra sức phủ định Cách mạng Văn hóa. Tuy nhiên phủ định Cách mạng Văn hóa cũng chỉ là cái cớ, thực chất hắn ta muốn sửa đổi Hiến pháp, thủ tiêu đi “bốn quyền lợi tự do” của người dân, cuối cùng tiến đến thủ tiêu quyền lợi bãi công của công nhân. Việc Đặng Tiểu Bình chối bỏ Cách mạng Văn hóa, có thể nói chính là thẳng tay tước đi quyền lợi dân chủ của người dân.
ĐCSTQ khi mới bắt đầu đã tuyên bố “giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo”, có vấn đề gì phát sinh là họ bãi công, đối kháng với chính phủ quốc dân đương thời. Nhưng đến 30 năm sau khi ĐCSTQ nắm quyền, chính họ lại “lập pháp” nhằm thủ tiêu quyền lợi bãi công của công nhân. Điều này minh chứng rằng, chính quyền ĐCSTQ đã biến thể trở thành một chế độ chuyên chế, độc tài, phản động và tàn ác hơn bất kỳ chính quyền nào khác.
Có người hy vọng Trung Quốc tiến tới dân chủ hóa và phó thác vào Đặng Tiểu Bình. Trong khi đó cựu Tổng Bí thư ĐCSTQ Triệu Tử Dương lúc còn sống đã thẳng thắn nhận định trong phần ghi âm rằng: “Đặng Tiểu Bình nói về dân chủ chỉ là những lời đạo đức giả và lừa gạt”.
Lại có người bình luận: Đặng Tiểu Bình mới là Hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc. Trên thực tế, Hoa Quốc Phong đã kết thúc nền chính trị chuyên chế cực đoan kiểu Mao Trạch Đông, bước đầu mở ra hình thế dân chủ trong Đảng. Nhưng do hoàn cảnh bất thường, trong vài năm, Đặng Tiểu Bình dùng thủ đoạn triệt tiêu Hoa Quốc Phong, ngang tàng khôi phục hình thức chính trị chuyên chế cực đoạn kiểu Mao Trạch Đông. Đặng tự xưng là “thế hệ hạt nhân” thứ hai kế tục sự nghiệp của Mao Trạch Đông, và hầu hết mọi việc đều do hắn ta quyết định. (Nhưng sau này, Tập Cận Bình mới thực sự chủ trương tham vọng là Hoàng đế quyền uy không nhiệm kỳ của Trung Hoa Đại lục).
Mùa xuân năm 1992, Đặng Tiểu Bình 88 tuổi, đột nhiên làm theo Mao Trạch Đông diễn vở kịch đi tuần phía nam. Lúc này do bất mãn với việc Giang Trạch Dân và Lý Bằng nắm quyền chính trị, nhận thấy họ quá thiên về cánh tả nên đã xướng ra phe ánh hữu, mục đích chính thực ra để phòng phe cánh tả. Đặng Tiểu Bình khi tuần tra Quảng Đông rộng lớn, vừa đi vừa chửi, buông ra những lời ám chỉ nặng nề: “Kẻ nào không cải cách, kẻ đó sẽ rớt đài.”
Có người hiểu rõ tình hình tiết lộ: Thời điểm đó Đặng Tiểu Bình âm mưu hạ bệ Giang Trạch Dân và Lý Bằng. Nhưng Giang và Lý đề phòng vô cùng chặt chẽ, khi đó Đặng Tiểu Bình không có quyền hành, đến chức Chủ tịch Quân ủy cũng không đạt được; thêm nữa sau khi đi tuần phía nam trở về Bắc Kinh thì cảm thấy thân thể khó chịu, sức khỏe suy kiệt, nên có muốn can dự vào cục diện chính trị cũng lực bất tòng tâm.
Con người thật, dã tâm và tội ác của Đặng Tiểu Bình ghê tởm rõ như ban ngày như thế - không chỉ với Việt Nam mà đối với nhân dân Trung Quốc - Thế mà ở Việt Nam lại cho xuất bản sách vinh danh ca ngợi: “Đặng Tiểu Bình - Một Trí Tuệ Siêu Việt” như một danh nhân, một bậc lỗi lạc của thế giới ??
Sau tròn 40 năm đằng đẵng - thật xúc động - đây là lần đầu tiên các báo và người dân được viết thật hết về cuộc xâm lược của quân Trung Quốc. Linh hồn người lính và người dân Việt Nam đã hy sinh, chết trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc đó lần đầu tiên ấm lòng nơi chín suối.
Vâng ! Xúc động không chỉ là được nói lên sự thật - mà xúc động vì một sự chuyển hướng kip xu thế - dù có trễ - để có thể thoát Trung - vì nước vì dân - Ước mơ của biết bao nhiêu lớp người và thế hệ Việt Nam nhiều thập kỷ qua.

- (Viết dựa trên phân tích Trần Phá Không - Nhà bình luận chính trị Trung Quốc, cùng các tư liệu cuộc chiến chống Trung Quốc một thời không quên). 

ƯỚC GÌ ĐÓ LÀ XÃ LUẬN BÁO NHÂN DÂN


1) THƠ HAY XÃ LUẬN BÁO NHÂN DÂN?

Gã thân Trần Mạnh Hảo hơn Nguyễn Quang Thiều. Nhớ thời Hảo bị quy kết phản động do làm nhiều bài thơ nói thật về bóng đêm thời cuộc, cha gã gặp ông Trường Chinh phản ứng bênh vực Hảo.
Ông Trường Chinh chọn một bài thơ của Hảo đầy khí phách chống Trung cộng xâm lược biên giới đăng trên báo Nhân Dân bên cạnh bài xã luận báo Nhân dân hừng hực khí thế. Thế là giải hạn cho Hảo.
Có một thời khi chiến tranh Trung Quốc xâm lược xảy ra, xã luận báo Nhân dân được đón đọc nhất vì nó nói lên tiếng nói hừng hực căm thù quân xâm lược của Nhân dân.
Bây giờ thơ Nguyễn Quang Thiều bị Trần Mạnh Hảo chê là xã luận báo Nhân dân, Thiều à, chớ lấy đó làm điều. Vì hôm nay 17.2 ngày Quốc hận của Nhân dân ta tưởng nhớ hàng trăm ngàn Đồng bào ta bị bọn cộng sản Trung Quốc thảm sát, Non sông ta bị bọn cộng sản Trung Quốc xâm lược, tàn phá, ước gì trên báo đảng cộng sản VN lấy bài thơ của Thiều "KẺ PHẢN BỘI TỔ QUỐC" làm xã luận của báo.
THƠ HAY XÃ LUẬN BÁO NHÂN DÂN?
Đó là tít bài viết của nhà thơ tài năng Trần Mạnh Hảo chê chất xã luận trong thơ của nhà thơ cũng rất tài năng Nguyễn Quang Thiều.
Thơ của Thiều đây:
KẺ PHẢN BỘI TỔ QUỐC
Hôm nay, ngày 17 tháng 2
Tôi sẽ thành một kẻ mù lòa, điên rồ và phản bội
Nếu đưa một bài thơ tình lên facebook của mình
Hôm nay lúc gần sáng
Trong cơn ác mộng tôi thấy
Những con rắn đen từ phương Bắc
Lẻn vào những ngôi nhà ngỏ cửa
Của chúng ta
Không phải chúng ta mất cảnh giác
Mà bởi chúng ta quá trong sáng
Mà bởi trong chúng ta có những kẻ hèn nhát
Mà bởi có những kẻ phản bội dân tộc
Lại thường đứng lẩn trong nghi lễ của sự trung thành
Hôm nay tôi nói với những đứa con của mình
Tin vào những xảo ngôn chỉ là tội của sự ngây thơ
Tin vào những xảo quyệt chỉ là tội của sự ngu dốt
Nhưng che đậy cho những xảo ngôn, xảo quyệt kia là phản bội tổ quốc mình.
Làng Chùa 17.2.2018
Còn theo Hảo nối tù tì câu thơ thì xã luận báo Nhân dân đây:
"Hôm nay, ngày 17 tháng 2, tôi sẽ thành một kẻ mù lòa, điên rồ và phản bội nếu đưa một bài thơ tình lên facebook của mình. Hôm nay lúc gần sáng trong cơn ác mộng tôi thấy những con rắn đen từ phương Bắc lẻn vào những ngôi nhà ngỏ cửa của chúng ta. Không phải chúng ta mất cảnh giác mà bởi chúng ta quá trong sáng. Mà bởi trong chúng ta có những kẻ hèn nhát. Mà bởi có những kẻ phản bội dân tộc. Lại thường đứng lẩn trong nghi lễ của sự trung thành. Hôm nay tôi nói với những đứa con của mình tin vào những xảo ngôn chỉ là tội của sự ngây thơ. Tin vào những xảo quyệt chỉ là tội của sự ngu dốt. Nhưng che đậy cho những xảo ngôn, xảo quyệt kia là phản bội tổ quốc mình”.
Thơ hay xã luận báo nhân dân?
Gã xin trả nhời ông bạn Hảo thân thiết của gã, rằng, nào quan trọng gì, bởi gã nhận được từ đoạn văn này là tấm lòng rất đáng trân trọng của công dân Nguyễn Quang Thiều, còn là đảng viên cộng sản Nguyễn Quang Thiều, còn là chủ tịch Hội Nhà văn VN Nguyễn Quang Thiều với Đất nước, Non sông.
Đáng trân trọng những lời như thế lúc này khi còn đó quá nhiều kẻ thờ ơ thời cuộc, hèn nhát trong tổ ấm, sợ đụng một chữ đến bọn xâm lăng Trung Quốc khốn kiếp kia
2) "NHÌN LẠI CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 1979
(Huỳnh Phan thực hiện- Bài trên Tuần VN ngày 17/2/2018)
Nhiều nguyên nhân đằng sau
Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước năm 1975, Trung Quốc liên tục có những động thái làm xấu đi quan hệ giữa hai nước, như cắt giảm viện trợ, thúc đẩy Hoa Kiều Việt Nam hồi hương, hay giúp Khơ-me đỏ Campuchia tiến hành chiến tranh biên giới phía Tây Nam. Như vậy, nguyên nhân sâu xa của việc tấn công Việt Nam ở biên giới phía Bắc đầu năm 1979 có phải là nhằm làm suy yếu một nước Việt Nam thống nhất?
TS Vũ Dương Huân: Tôi nghĩ việc Trung Quốc tấn công Việt Nam vào ngày 17/2/1979 là một sự kiện lớn, phải giải thích từ nhiều nguyên nhân, chứ chỉ đặt vấn đề là để Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia cũng là đúng, nhưng chưa đủ.
Tôi cho rằng, nguyên nhân đầu tiên là quan hệ hai nước lúc này căng thẳng và Việt Nam có nhiều chính sách không phù hợp với mong muốn của Trung Quốc. Trung Quốc muốn khuất phục Việt Nam, muốn Việt Nam phải theo quan điểm, đường lối, chính sách của Trung Quốc, và phụ thuộc vào Trung Quốc. Cho nên có nhiều vấn đề, nhiều việc mà Việt Nam làm, khiến Trung Quốc không hài lòng.
Thí dụ, thứ nhất, chiến lược của Trung Quốc là tập trung vào tiến hành hiện đại hóa, thực hiện nhiệm vụ 4 điểm hiện đại hóa. Thứ hai là chiến lược đối ngoại của Trung Quốc vẫn coi như Liên Xô và Mỹ là kẻ thù truyền kiếp và nguy hiểm. Thứ ba, Trung Quốc muốn Việt Nam không ảnh hưởng lớn đến Lào và Campuchia ở Đông Dương, không tập hợp lực lượng ở đây. Và trên hết, Trung Quốc không muốn Việt Nam mạnh để hoàn toàn độc lập về đường lối, chủ trương, dẫn đến Việt – Trung kênh về đường lối, chủ trương, và sau đó là lợi ích.
Chiến lược của Việt Nam, sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đã coi Liên Xô là đối tác hợp tác toàn diện, sau này còn nâng lên là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại. Trong khi đó, Trung Quốc coi Liên Xô là kẻ thù, Trung Quốc hòa hoãn với Mỹ lúc ấy để chống Liên Xô. Liên Xô vẫn duy trì lực lượng rất lớn ở Mông Cổ và biên giới Trung Quốc, và Trung Quốc cho rằng đấy là mối đe dọa với họ.
Ngoài chiến lược hợp tác toàn diện với Liên Xô, Việt Nam đồng thời gia tăng quan hệ với khối SEV (Hội đồng Tương trợ Kinh tế), nghĩa là Việt Nam vào khối mà Trung Quốc chống.
Khía cạnh thứ hai về đối ngoại là Trung Quốc đã không muốn Việt Nam thắng lợi ở miền Nam và giải phóng đất nước, vì Việt Nam sẽ mạnh hơn, đồng thời mở rộng ảnh hưởng sang Lào và Campuchia. Chính sách của Trung Quốc sau Hiệp định Geneva năm 1954 là chia cắt bán đảo Đông Dương thành những quốc gia nhỏ - Bắc Việt Nam, Nam Việt Nam, Lào và Campuchia, như thế Trung Quốc mới dễ dàng có vai trò chỉ đạo. Trung Quốc cho rằng Việt Nam muốn xây dựng Đông Dương thành khu vực của mình, thành “tiểu bá”, và tuân theo “đại bá” Liên Xô.
Không thể chấp nhận được đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam, nên Trung Quốc muốn dạy cho Việt Nam một “bài học”.
Trung Quốc đã không muốn Việt Nam thống nhất đất nước, và năm 1974, lợi dụng tình hình chiến sự của ta, Trung Quốc công khai chiếm Hoàng Sa của Việt Nam. Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam có nêu lại vấn đề Hoàng Sa?
Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tống Bí thư Lê Duẩn tháng 9/1975 và năm 1977, hai bên bất đồng quan điểm trong nhiều vấn đề, đặc biệt là vấn đề biên giới lãnh thổ. Ông Lê Duẩn chính thức phê phán Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam 1974 và chính thức đặt vấn đề là hai bên cần bàn lại vấn đề Hoàng Sa, nhưng Trung Quốc hoàn toàn bác bỏ. Hai chuyến thăm đều không có đáp lễ và không có tuyên bố chung, vì hai bên không thống nhất được bất cứ vấn đề gì.
Hơn nữa, trong chuyến thăm đầu, Việt Nam yêu cầu Trung Quốc, nước có quan hệ thân thiết với Khơ-me Đỏ, giải quyết quan hệ khúc mắc giữa Việt Nam với Campuchia, bởi sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 2/5/1975, Khơ-me Đỏ đã tấn công Việt Nam, đến 10/5/1975 bắt đi 512 người, khiến quan hệ biên giới cực kỳ căng thẳng. Trung Quốc đã lờ đi.
Vậy còn vấn đề nạn kiều, được họ khơi ra từ khi nào?
Chuyện này bùng nổ từ tháng 8/1978, khi Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản, chủ yếu đã động tới người Hoa ở Miền Nam. Hồi đó, Việt Nam có khoảng 1,5 triệu người Hoa, trong đó khoảng 70-80% ở Sài Gòn, chủ yếu là doanh nghiệp lớn, án ngữ kinh tế miền Nam.
Trung Quốc coi việc cải tạo công thương ở miền Nam là chiến dịch chống lại người Hoa, mà chính sách của Trung Quốc là coi người Hoa ở nước ngoài cũng là người Trung Quốc, phải bảo vệ, ủng hộ, giúp đỡ. Hồi đó, Việt Nam cũng có chính sách yêu cầu người Hoa ở miền Bắc, trở về nước.
Nguyên nhân trực tiếp của việc Trung Quốc tấn công Việt Nam vào đầu năm 1979 có phải là nhằm yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi Campuchia?
Tôi cho đó là nguyên nhân thứ hai tác động đến quyết định của Trung Quốc.
Ngày 7/1/1979 Việt Nam giải phóng Campuchia, sau hàng loạt hoạt động quân sự trước đó, như cuối 1977 - đầu 1978 Việt Nam chống trả 23 sư đoàn Campuchia tấn công Việt Nam.
Đến 23/12/1978, Việt Nam tấn công giải phóng toàn bộ phía Đông, và đến 7/1/1979 giải phóng Phnom Pênh, lật đổ toàn bộ chính phủ Khmer Đỏ. Đó là cái tát vào mặt Trung Quốc, và Trung Quốc phải “rửa mặt” bằng cách tấn công Việt Nam.
Trung Quốc dùng lực lượng quân sự 30 vạn quân đánh Việt Nam như thế, họ cũng tính toán chiến lược là Việt Nam phải rút lực lượng quân sự ở Campuchia về, bởi ở phía Bắc Việt Nam chỉ có một sư đoàn chủ lực. Như vậy sẽ tạo điều kiện cho Khmer đỏ chống lại sức ép của Cộng hòa Nhân dân Campuchia.
Còn việc Việt Nam ký Hiệp định Hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô tháng 11/1978 có tác động gì tới quyết định của Trung Quốc tấn công Việt Nam?
Tôi nghĩ quyết định đánh Việt Nam có liên quan tới Hiệp định này nhằm phá sự liên kết, đoàn kết giữa Việt Nam - Liên Xô. Tôi cho đó là nguyên nhân chiến lược, vì Trung Quốc rất ngại khi Liên Xô duy trì khoảng 1 triệu quân ở biên giới Trung Quốc ở Mông Cổ.
Trung Quốc nhiều lần khẳng định đấy là sự đe dọa nguy hiểm với an ninh của nước này, cũng như nhiều lần đề nghị Liên Xô phải rút quân, nhưng Liên Xô cũng không bao giờ chấp nhận. Trung Quốc cho rằng nếu Việt Nam - Liên Xô ngày càng thiết lập quan hệ chặt chẽ hơn sẽ đe dọa an ninh của họ, bởi phía Bắc là Liên Xô, phía Nam là Việt Nam, và họ bị kẹp hai đầu.
Qua việc tấn công Việt Nam năm 1979, họ sẽ thử phản ứng của Liên Xô. Nếu Liên Xô phản ứng tích cực, Trung Quốc sẽ tính toán được sự đe dọa của Liên Xô.
Chuyên gia nước ngoài nói rằng một trong những nguyên nhân Trung Quốc đánh Việt Nam là thử sức mạnh của quân đội, hòng thúc đẩy chương trình hiện đại hóa quân sự, bởi quân đội Trung Quốc đã không trực tiếp chiến đấu kể từ chiến tranh Triều Tiên năm 1953?
Tôi cho rằng cũng có lý. Quân đội Trung Quốc mấy chục năm không qua chiến đấu, thử thách, đã tỏ ra lạc hậu. Tấn công Việt Nam là để thử sức cái gọi là lực lượng vũ trang Trung Quốc, đồng thời thử vũ khí, chiến thuật, và năng lực quân đội.
Về cơ bản Trung Quốc đã thất bại
Theo ông, khi tấn công Việt Nam, Trung Quốc có dự tính đánh tới đâu không?
Đấy là câu hỏi chính Đặng Tiểu Bình cũng đã khôn ngoan trả lời, ngay sau khi Trung Quốc bắt đầu tấn công Việt Nam, rằng việc đánh Việt Nam bằng hoạt động quân sự là hạn chế về không gian và thời gian. Điều đó có hai cái lợi, là khẳng định rằng Trung Quốc chỉ “dạy bảo” thôi, chứ không thôn tính Việt Nam. Như vậy, phản ứng quốc tế bất lợi cũng đỡ hơn.
Theo ông, qua kênh ngoại giao Việt Nam có biết Trung Quốc có thể tấn công Việt Nam không? Nhất là khi trước đó Đặng Tiểu Bình tuyên bố là sẽ dạy cho Việt Nam một bài học?
Tôi nghĩ là lúc ấy hầu như không có ai suy luận được, không ai nghĩ là Trung Quốc sẽ tấn công Việt Nam bằng quân sự, vì ta có cái nhận thức từ xưa tới nay là XHCN không có mâu thuẫn đối kháng, không tấn công lẫn nhau. Trên thực tế, sáng 17/2/1979, khi Trung Quốc tấn công Việt Nam, Bộ Ngoại giao mới tập trung làm tuyên bố.
Tại sao khi tấn công Việt Nam, Trung Quốc lại sử dụng quân từ phía Bắc mà không phải ở phía Nam mà có thể là hiểu Việt Nam hơn? Liệu có phải như cựu Tổng Lãnh sự ở Quảng Đông Dương Danh Dy từng kể, một lãnh đạo tỉnh Quảng Đông đã nói với ông rằng "chúng tôi và các ông (Việt Nam) còn gần gũi nhau hơn là phía Bắc (Bắc Kinh)"? Và trên thực tế quân Trung Quốc đã hành động hết sức dã man đối với bộ đội và nhân dân phía Bắc.
Trung Quốc rất giỏi toan tính về vấn đề này. Trung Quốc là một đất nước rộng mênh mông, người phương Bắc là những bộ tộc người khác, còn ở phía Nam họ cũng cùng với Việt Nam nằm trong Bách Việt, từ Nam sông Dương Tử trở lại đây là Bách Việt. Chính vì vậy dân Trung Quốc phía Bắc và phía Nam có sự khác nhau về dân tộc và văn hóa.
Đặng Tiểu Bình rất khôn ngoan khi không dùng người phía Nam, chủ yếu là dân tộc Choang, vốn cùng là dân Bách Việt với người Việt Nam, rất hiểu văn hóa, phong tục tập quán của người Việt Nam, để đánh Việt Nam. Họ có thể sẽ không mạnh tay, không dã man như quân phương Bắc.
Trong cuộc chiến này, phải chăng vì Việt Nam bất ngờ nên đã không có chủ trương tuyên truyền đối ngoại hợp lý?
Không phải. Cuộc chiến này chủ yếu liên quan tới Việt Nam, còn các nước như Campuchia hay Lào im lặng, Liên Xô và các nước XHCN khác tuy xác định Trung Quốc là nước có tư tưởng Đại Hán nhưng họ vẫn công nhận Trung Quốc là nước XHCN. Trong khi đó, Trung quốc đã tranh thủ được sự ủng hộ của các nước ASEAN và phương Tây, đặc biệt là Mỹ, chống lại việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia.
Sau chưa đầy một tháng tấn công Việt Nam, Trung Quốc đã rút lui. Lý do có phải do thất bại nặng nề hay là do e ngại Liên Xô có phản ứng ở biên giới phía Bắc Trung Quốc?
Tôi nghĩ có nhiều nguyên nhân, nhưng đầu tiên cũng phải khẳng định rằng Trung Quốc tấn công Việt Nam bằng quân sự theo lịch trình của họ, bởi họ tuyên bố không thôn tính Việt Nam, và cuộc chiến này hạn chế về mặt không gian và thời gian.
Lý do thứ hai cũng không thể loại trừ, là thiệt hại của quân đội Trung Quốc vô cùng lớn. Một thống kê sau này cho thấy phía Trung Quốc có 62.000 người chết, thương vong rất nhiều, vũ khí đạn dược nhiều cái lâu không dùng bị thối, lực lượng dân công, hậu cần cũng gặp khó khăn, bởi các phương tiện rất lạc hậu.
Dư luận quốc tế cũng gây sức ép nặng, đòi họ phải rút quân.
Liên Xô đã tuyên bố rằng nếu Trung Quốc dừng kịp thời thì Liên Xô sẽ không can thiệp sâu, mặc dù Liên Xô và Việt Nam có ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, trong đó có điều 6 là hợp tác quân sự. Đó là nhân tố Trung Quốc phải tính đến, họ cũng ngại nếu can thiệp sâu quá, vượt quá “vạch đỏ” thì Liên Xô có thể tấn công ở phía Bắc, nơi Liên Xô có hơn một triệu quân.
Trước đó, Liên Xô huy động lực lượng quân sự ở mức vừa phải thôi, chủ yếu giúp Việt Nam vận chuyển quân đội từ Campuchia lên biên giới phía Bắc, cung cấp cho Việt Nam vũ khí, quân trang, quân dụng, và đưa cố vấn vào.
Còn một lý do quan trọng nữa, có lẽ là tình báo họ nắm được là chiều 5/3/1979 Việt Nam dự định tổ chức mít tinh tại Nhà hát lớn và công bố Lệnh Tổng động viên. Nhưng sáng 5/3 họ đã rút rồi, nên không có buổi mít tinh ấy nữa. Một khi có lệnh tổng động viên sẽ là vấn đề lớn, thành vấn đề Tổ quốc bị xâm lăng, chứ không còn là vấn đề chiến tranh biên giới nữa.
Trung Quốc có đạt được mục tiêu khi tấn công Việt Nam?
Trung Quốc đã đạt được mục tiêu thử phản ứng của Liên Xô, và biết rằng Liên Xô sẽ không đổ tiền đổ của vào để cứu Việt Nam bằng mọi giá. Mặt khác, qua đây họ kiểm tra lại khả năng quốc phòng, binh lính, hợp đồng tác chiến, và vũ khí của mình, nhận thức được quốc phòng, vũ khí của Trung Quốc quá lạc hậu, chiến thuật, chiến lược quá kém.
Tôi thấy Trung Quốc cũng đạt được một vài mục tiêu, nhưng cơ bản là thất bại.
Thứ nhất, mục tiêu bắt Việt Nam thay đổi chính sách thì ta không thay đổi, vẫn quan hệ chặt chẽ với Liên Xô và vẫn bất đồng quan hệ với Trung Quốc, và bất đồng lợi ích với Trung Quốc trong nhiều vấn đề.
Thứ hai, mục tiêu thứ hai bắt Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, thì tuy Việt Nam có rút bớt quân khỏi Campuchia, nhưng điều đó không tạo ra so sánh lực lượng ở chiến trường Campuchia có lợi cho Khơ me đỏ. Như vậy cũng không đạt yêu cầu.
Thứ ba là vấn đề đánh để giãn đồng minh chiến lược Việt Nam - Liên Xô cũng không đạt yêu cầu.