Tại sao Mỹ không bồi thường chiến tranh Việt Nam?
Tác giả: Trúc Quỳnh
,
Ông Phan Doãn Nam, thư ký của Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch thời
kỳ Việt Nam và Mỹ đang đàm phán Hiệp định Paris, kể lại những câu chuyện liên
quan quá trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ, trong đó có vấn đề bồi thường
chiến tranh và MIA.
Nhà máy thép không thành
“Quá khứ không dễ quên, nhất là khi bị in hằn bởi những vết sẹo do chiến
tranh để lại nhưng với tư duy luôn hướng về phía trước, Việt Nam và Hoa Kỳ đã
và đang nỗ lực rất nhiều để vượt lên trên quá khứ và định hình quan hệ tương
lai”. (Phó TT-Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh)
Ông Nam kể, năm 1973, phía
Việt Nam muốn nhận tiền bồi thường chiến tranh để xây dựng nhà máy thép 3 triệu
tấn; phía Mỹ đồng ý thương lượng về vấn đề này, nhưng không gọi là bồi thường
chiến tranh, mà là khoản đóng góp vào quá trình tái thiết Việt Nam. Phía Việt
Nam lúc đầu đưa ra con số 5 tỷ USD, sau thương lượng thì rút xuống 3,25 tỷ USD.
Tháng 2/1973, Tổng thống Mỹ Richard Nixon gửi thư cho Thủ tướng Phạm Văn
Đồng với nội dung Mỹ sẽ trả khoản tiền 3,25 tỷ USD. Ông Nam nói rằng, lúc đó,
các nhà lãnh đạo Việt Nam đang tập trung ký cho xong Hiệp định Paris, nên không
phân tích kỹ một câu gần cuối thư có nội dung hai bên sẽ thực hiện thỏa thuận
ghi trong thư đúng theo hiến pháp của mỗi nước. Theo ông Nam, chính câu này trở
thành cớ để Mỹ sau đó không thực hiện cam kết trả 3,25 tỷ USD; vấn đề bồi
thường nếu đưa ra Quốc hội Mỹ chắc chắn không được thông qua vì Quốc hội Mỹ hồi
đó chống đối Việt Nam. Báo chí Mỹ về sau đưa tin, tác giả của câu đó chính là
ông Henry Kissinger (cố vấn của Tổng thống Mỹ Richard Nixon, sau trở thành
Ngoại trưởng), ông Nam nói.
Ông Phan Doãn Nam (từng là Thư ký/Trợ lý của Thứ trưởng/Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch)
Trước đó, đoàn đại diện của Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID) Mỹ vẫn
tư vấn cho Việt Nam cách chia nhỏ nhà máy thép công suất lớn thành nhiều nhà
máy công suất nhỏ để tránh bị Quốc hội Mỹ gạt bỏ nếu cho rằng Việt Nam sản xuất
nhiều thép để tiếp tục chiến tranh. Đoàn của USAID còn đưa ra yêu cầu tiền bồi
thường phải được dùng để mua hàng của Mỹ và vận chuyển bằng tàu Mỹ, chứ không
được trả bằng tiền mặt. Sau mấy tháng làm việc và tư vấn cho Việt Nam, đoàn này
về nước và không hồi âm gì, ông Nam kể.
Ông Nam nói rằng, sau
đó, Việt Nam mới nhận ra Mỹ chỉ muốn thăm dò xem nước ta có thực sự muốn xây
dựng lại đất nước hay tiếp tục chiến tranh. Nhân có dòng chữ cuối thư mà phía
Mỹ không đề cập chuyện viện trợ 3,25 tỷ USD nữa. Năm 1975, Mỹ cho rằng Việt Nam
không thi hành Hiệp định Paris nên cũng không thực hiện cam kết của họ, trong
đó có khoản bồi thường chiến tranh, ông Nam nói. Những cuộc đàm phán sau đó về
bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ bế tắc vì nhiều vấn đề, trong đó có bồi thường
chiến tranh, MIA… Thời gian đó, Mỹ luôn cho rằng, Việt Nam giữ lại hài cốt lính
Mỹ và giấu tù binh Mỹ.
Từ năm 1977 đến 1978,
Việt Nam có ba cuộc thương lượng với Mỹ về bình thường hóa quan hệ, nhưng đều
bế tắc vì hai vấn đề này, ông Nam kể. Sau đó, các cuộc đàm phán còn bị ảnh
hưởng khi Trung Quốc chủ động thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ông nói.
Tổng thống Mỹ Jimmy Carter hồi đó không chống Việt Nam, nhưng cho rằng thời cơ
đến thì bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trước, sau đó với Việt Nam.
Về vấn đề MIA, Việt
Nam đã nỗ lực giải quyết vấn đề tìm kiếm, trao trả nhiều hài cốt cho Mỹ. Phía
Việt Nam phải trải qua nhiều khó khăn, vất vả, thậm chí thương vong trong quá
trình đi tìm hài cốt lính Mỹ. Ông Nam kể rằng, một người bạn ông làm việc ở Bộ
Ngoại giao đã tử nạn khi có mặt trên chiếc máy bay bị nổ trên đường đi tìm hài
cốt Mỹ. Năm 2000, vợ chồng Tổng thống Mỹ Bill Clinton sang Việt Nam được mời ra
tận thực địa để chứng kiến việc tìm kiếm hài cốt lính Mỹ khó khăn như thế nào.
Ông Nam kể, phía ta
nói với phía Mỹ rằng, Việt Nam còn có hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu
chiến sĩ hy sinh trong chiến tranh chưa nhận dạng được, chưa biết mồ mả ở đâu;
phía Mỹ dần dần hiểu ra rằng Việt Nam cũng đau lắm. Đến năm 1989, Việt Nam rút
hết quân khỏi Campuchia, xóa bỏ trở ngại cuối cùng trong tiến trình đàm phán.
Đại sứ Mỹ lúc đó tuyên bố sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Henry Kissinger:
Chúng tôi kính phục các ông
Ông Nam nói rằng,
trong quá trình đàm phán bình thường hóa quan hệ, thái độ của phía Việt Nam rất
nghiêm túc, biết “đánh đúng chỗ họ cần”, và được phía Mỹ đánh giá cao. Là người
tham gia quá trình đàm phán Hiệp định Paris, ông Nam kể lại câu chuyện sau 5
năm đàm phán ở Paris, buổi cuối cùng vào tháng 1/1973, đoàn Việt Nam mời cơm
thân mật đoàn Mỹ. Ông Lê Đức Thọ trong bữa đó đã hỏi ông Henry Kissinger nghĩ
sao về đoàn Việt Nam.
“Không phải là người
thân Việt Nam, nhưng Kissinger đã nói rằng, chuyện các ông chiến đấu oanh liệt
là không ai chối cãi. Nhưng nếu các ông chỉ gan dạ, anh dũng thì chúng tôi cũng
dễ đối phó. Nhưng đằng này các ông còn rất khôn ngoan, mưu lược, nên 5 năm nay chúng tôi phải
đấu với các ông không phải dễ. Chúng tôi rất kính phục các ông”, ông Nam kể.
Sau khi ký Hiệp định Paris, Mỹ vẫn không đồng ý Việt Nam vào Liên Hợp
Quốc, nhưng Tổng thống Nixon nói rằng, Mỹ sẽ không bao giờ xem Việt Nam là kẻ
thù, và trong thời gian chưa bình thường hóa quan hệ, sẽ không công nhận bất kỳ
chính phủ lưu vong nào chống lại chính phủ Việt Nam, ông Nam cho biết.
Ông Nam cho rằng, Việt Nam và Mỹ từng có không ít cơ hội để có thể “chơi”
với nhau từ rất sớm. Ông kể, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara đã tổ
chức năm cuộc hội thảo tại Việt Nam và một hội thảo ở Ý để tìm ra trong quan hệ
Việt – Mỹ có cơ hội nào bị bỏ lỡ. Sau khi Việt Nam độc lập, Bác Hồ gửi thư cho
Tổng thống Mỹ Harry Truman.
Chiến tranh Lạnh khi đó chưa đến, và Tổng thống Truman vẫn nói ủng hộ
quyền tự quyết của các dân tộc. Bác Hồ tin tưởng như vậy nên mới gửi thư cho
Tổng thống Truman, nhưng ông này không trả lời, ông Nam kể. Bản thân ông
McNamara ít nhất 7 lần đề nghị chính phủ Mỹ đàm phán, nhưng cũng bị bỏ qua…
Quan hệ Việt – Mỹ đang phát
triển thuận lợi
Trong bức thư gửi Tổng thống Truman ngày 16/2/1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu rõ mục tiêu của Việt Nam là “độc lập hoàn toàn và hợp tác
toàn diện với Hoa Kỳ”. Người cũng khẳng định Việt Nam “sẽ làm hết sức mình để
làm cho nền độc lập và sự hợp tác này trở nên có lợi cho toàn thế giới”. Thế giới
ngày nay đang vận động rất nhanh, đòi hỏi hai nước không được phép bỏ lỡ những
cơ hội lịch sử như những giai đoạn trước, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao Phạm Bình Minh nhận định. Chặng đường 20 năm qua, nhất là từ khi hai nước
xác lập quan hệ Đối tác toàn diện tháng 7/2013, đã chỉ ra rằng, hòa bình và thịnh
vượng ở Đông Nam Á nói riêng và khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói chung có
nhiều điều kiện được duy trì hơn khi quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ phát triển thuận
lợi; quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ phù hợp với
lợi ích chung của tất cả các nước trong khu vực, Phó Thủ tướng khẳng định.
———
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét