Trần Văn Thọ, Giáo sư Đại học Waseda, Tokyo
Dự thảo luật về ba đặc khu kinh tế đang được dư luận quan tâm. Mục đích thành lập 3 đặc khu được ghi nhận là đưa ra các điều kiện vượt trội, hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong các lãnh vực công nghệ cao, hoặc các lãnh vực có nhu cầu cao trên thị trường thế giới, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế trong giai đoạn tới. Cho đến nay nhiều chuyên gia
kinh tế, luật sư và một số dân biểu quốc hội đã nêu nghi vấn về tác động kinh tế của ba đặc khu dự kiến và sự lo ngại về an ninh quốc gia khi cho phép người nước ngoài thuê đất lâu dài. Tôi chia sẻ với nhiều nghi vấn và lo ngại nầy, ở đây muốn phân tích thêm từ vài khía cạnh khác.
Để đánh giá khách quan, trước
hết cần đặt ra 3 câu hỏi.
(1) Nhu cầu phát triển
sắp tới của đất nước là gì? Các đặc
khu có đáp ứng được các nhu cầu
đó không?
(2) Nền kinh tế
đã phụ thuộc vào tư
bản nước ngoài rất
nhiều rồi, giai đoạn
tới cần phải vừa nuôi dưỡng,
khuyến khích tư
bản dân tộc
phát triển vừa chọn lựa những nhà đầu
tư nước ngoài thật
sự cần thiết
ở những lãnh vực
trong nước chưa đủ
năng lực, và ngoại
lực đó phải
có sức lan tỏa
giúp cho nội lực ngày càng mạnh.
Các đặc khu đã được
thiết kế để đáp ứng
yêu cầu nầy chưa?
(3) Những tập đoàn công ty nước
ngoài nổi tiếng có công nghệ
cao, có nguồn lực và văn hóa kinh doanh tiên tiến
mà chúng ta sẽ cần họ đến đầu tư đang
đánh
giá
Việt Nam như
thế nào? Họ
mong Việt Nam tạo
môi trường như
thế nào để
họ mang các dự
án chất llượng cao đến
và các đặc khu kinh tế
dự kiến có hy vọng
đáp ứng các yêu cầu
đó không?
Về câu hỏi
thứ nhất, hiện
nay hơn 40% lao động còn làm việc
trong nông nghiệp với năng suât thấp.
Mặt khác, khu vực
cá thể, hộ gia đình (cũng năng suất
thấp) còn chiếm
hơn 30% tổng
sản phẩm trong nước
(GDP). Do đó chiến lược sắp tới phải thúc đẩy
phát triển công nghiệp
và dịch vụ theo hướng
hiện đại (áp dụng
công nghệ mới và tăng quy mô nhà máy, cơ
sở sản xuất) để thu hút lao động
dư thừa và lao động
cá thể, thực hiện phát triển
vừa bao trùm vừa
với tốc độ cao. Phát triển
công nghiệp của Việt Nam đã tiến
một bước nhưng chủ
yếu mới lắp ráp, gia công, trước
mắt phải đẩy mạnh công nghiệp
hỗ trợ, tạo điều kiện để doanh nghiệp
Việt Nam tham gia cao hơn
vào
mạng lưới cung ứng
toàn cầu hoặc khu vực.
Một phương hướng nũa là đẩy
mạnh phát triển
công nghiệp thực phẩm làm đòn bẩy
phát triển nông nghiệp.
Cần thêm một
điểm nữa là với
kỹ thuật công nghệ
ngày nay công nghiệp hóa có khuynh hướng
dùng ít lao động, do đó để
tạo công ăn việc
làm cho lực lượng lao động
hiện nay, cần
phải phát triển
nhiều ngành dịch
vụ có giá trị
gia tăng cao như công nghệ
thông tin phần mềm, tài chánh,... hoặc
tận dụng các lợi
thế thiên nhiên và di sản
văn hóa để phát triển
dịch vụ du lịch.
Từ nhu cầu
nói trên, ba đặc khu kinh tế
đang dự định chỉ
có tác dụng thúc đẩy
ngành du lịch, nghỉ
dưỡng, vui chơi
giải trí. Các công ty nước
ngoài định đầu tư vào
công
nghiệp sẽ chọn những trung tâm đã hình thành các cụm
công nghiệp hoặc những nơi phụ cận, hay những
vùng gần với sản xuất nông phẩm.
Nếu 3 đặc
khu đang bàn được thiết
lập 30 hay 25 năm trước,
khi VN mới mở cửa và kinh tế
thị trường mới sơ khai thì hiệu quả phát triển
công nghiệp sẽ rất lớn (giống
như các
đặc
khu của Trung Quốc
40 năm trước đây). Nhưng
hiện nay thì hiệu
quả phát triển
công nghiệp tại những nơi đó
hầu như không
có được. Tôi có nói chuyện
với đại diện nhiều
tập đoàn công nghiệp
của Nhật, không ai quan tâm đến
các đặc khu mà ta đang bàn cả.
Ông Kawada Atsusuke, cựu giám đốc
JETRO tại Việt Nam, người
thường xuyên tiếp
xúc với các nhà đầu
tư lớn của Nhật, có nói với
tôi là ông chưa đến
khu Văn Phong nên không có ý kiến, nhưng
riêng
về Vân Đồn
và Phú Quốc thì ông thấy
không thể là nơi
thu hút
đầu
tư của Nhật trong các ngành dùng công nghệ
cao, và các nới đó không thể
trở thành cứ
điểm sản xuất để tham gia vào mạng
lưới cung ứng
toàn cầu. Ông cũng nói thêm là riêng ỏ
bắc bộ, nếu muốn thu hút đầu
tư nươc ngoài trong các ngành
công
nghệ cao thì thay vì Vân Đồn
nên lập các khu công nghiệp
gần Hải Phòng là nới
có hội đủ các điều
kiện
Như vậy, ba đặc
khu kinh tế nếu chỉ có tác dụng
phát triển du lịch,
nghỉ dưỡng, giải
trí thì không cần đưa ra các tiêu
chuẩn vượt trội như thuế và quyền
sử dụng đất lâu dài. Với
luật đầu tư nước ngoài hiện
hành là đủ rồi. Chỉ
cho thuế đất tối đa 50 năm.
Về điểm thứ hai, hiện
nay, các công ty có vốn nước ngoài (FDI) đã chiếm
khoảng 50% sản
lượng công nghiệp
và 70% xuất khẩu của Việt Nam. Độ
phụ thuộc của kinh tế
Việt Nam vào tư
bản nước ngoài là rất
cao, cao nhất tại Á châu. Hơn
nữa, khu vực
FDI và khu vực tư bản trong nước
hầu như ít
liên
kết với nhau. Độ
lan tỏa của công nghệ
nươc ngoài qua FDI còn rất
yếu.
Ngoài ra phải kể đến hiện tượng tư bản nước ngoài, chủ
yếu là Trung Quốc,
trong nhiều năm nay đã nhờ
người Việt Nam đúng tên mua nhiều
đất ở ven biển.
Trung Quốc còn thắng
thầu trong rất
nhiều dự án xây dựng
ở Việt Nam. Do đó vấn
đề của Việt Nam hiện
nay là từng bước khắc phục quan hệ
không lành mạnh với tư bản nươc ngoài, đồng
thời xúc tiến
hợp tác liên kết
giữa tư bản trong nước
với những dự án FDI chất
lượng cao.
Nhìn từ thực tế đó, nếu
ba đặc khu kinh tế
ra đời nhằm thu hút FDI vào các lãnh vực
khách sạn, nghỉ
dưỡng, du lịch,
giải trí thì cũng nên có chính sách, điều
kiện để tư bản dân tộc
tham gia theo hình thức liên doanh, hợp
tác.
Về điểm thứ ba, hiện
nay Việt Nam đang là môi trường
đầu tư nhiều triển
vọng đối với tư bản nước ngoài. Theo điều
tra gần đây của
Tổ chức xúc tiến
Thương mại Nhật Bản (JETRO), Việt
Nam được đánh giá rất
cao, xếp thứ hai trong những
nước mà các công ty Nhật
muốn đến đầu tư. Không
riêng
gì
Nhật, không cần
những ưu đãi
vượt trội về thuế và thời
hạn thuê đất,
công ty nước ngoài vẫn
chọn Việt Nam là địa
điểm đầu tư hấp dẫn. Dĩ nhiên họ
mong môi trường đầu tư ở VN được
cải thiện
hơn nữa nhưng theo 3 nội
dung khác. Một là, thủ
tục hành chánh, thông quan ở
các cửa khẩu cần nhanh chóng hơn.
Hai là,
cung cấp nhiều
hơn nguồn
nhân lực chất lượng cao để
họ dễ triển khai các dự
án công nghiệp có quy mô lớn
và xử dụng công nghệ
cao. Ba là, ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển
để doanh nghiệp
FDI giảm được chi phí đầu
vào vì không phải nhập khẩu linh kiện,
bộ phận và các sản
phẩm trung gian với
phí tổn cao. Ba nội
dung nầy cũng phù hợp
với nhu cầu
cải cách, phát triển
của VN.
Từ phân tích trên, có thể
kêt luận là ba đặc
khu kinh tế đang dự
định thành lập
chỉ thích hợp
cho phát triển du lịch,
cơ sở nghỉ dưỡng dịch vụ vui chơi,
giải trí...và do đó, không cần
đưa ra các ưu đãi
vượt trội về thuế, về quyền thuê đất
lâu dài. Đặc biệt cả 3 đặc khu đều
ở các vị
trí quan trọng về quốc phòng, ngay cả
việc áp dụng
luật đầu tư nước ngoài hiện
hành (được thuê đất
50 năm) cũng cần thận trọng không để
tập trung vào đầu
tư từ một nước duy nhất,
nhất là đôi với
Trung Quôc, một nước đã cho thấy
nhiều tham vọng
đối với lãnh thổ
nước ta. Tôi mong Quốc
Hội kỳ này chưa
thông
qua luật về ba đặc
khu, nên dành thời gian bàn thảo,
phân tích và tham khảo hơn nữa ý kiến
của các chuyên gia./.
http://www.viet-studies.net/kinhte/TranVanTho_BaDacKhu.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét