Ngày 5/3/1979, trong
tình thế cấp bách chống lại hơn nửa triệu quân Trung Quốc xâm lược biên giới
phía Bắc, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đã ra lệnh tổng động viên toàn quân, toàn
dân kháng chiến.
Rạng sáng 17/2/1979,
Trung Quốc bất ngờ đưa hơn nửa triệu quân cùng hàng nghìn xe tăng, xe cơ giới
tràn qua biên giới Việt Nam, đồng loạt tấn công 6 tỉnh phía Bắc từ Pa Nậm Cúm
(Lai Châu) đến Pò Hèn (Quảng Ninh) trên chiều dài 1.200 km biên giới
.
|
X em chi
tiết đồ họa chiến
sự năm 1979.
. |
Tháng 5/1975, quân
Khmer Đỏ đánh chiếm các đảo Phú Quốc, Thổ Chu, thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam
tàn sát dân thường và đứng đằng sau là Trung Quốc tài trợ khí tài, cố vấn quân
sự. Tháng 11/1978, Hiệp ước hữu nghị Việt - Xô được ký chính thức xác nhận Việt
Nam đứng về phía Liên Xô.
Gần 2 tháng sau, quân đội Việt Nam tổng phản công trên biên giới
Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ chính quyền Khmer Đỏ. Trung Quốc quyết
định dừng viện trợ cho Việt Nam.
"Phải dạy cho Việt Nam một bài học", Phó thủ
tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình khi ấy tuyên bố.
Cuộc chiến biên giới phía Bắc nổ ra giữa lúc các quân đoàn chủ
lực của Việt Nam đang chiến đấu với quân Khmer Đỏ ở Campuchia. Dọc tuyến
biên giới chỉ có lực lượng chủ lực của các quân khu, bộ đội địa phương và dân
quân du kích. Tổng lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại các tỉnh biên giới
phía Bắc khoảng 50.000 quân. Trong khi Trung Quốc ước tính 600.000 với 9
quân đoàn chủ lực và 32 sư đoàn bộ binh độc lập, 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư
đoàn, trung đoàn pháo binh, phòng không cùng hàng trăm pháo hạng nặng, hàng
nghìn súng cối và dàn hỏa tiễn. Có nơi, quân Trung Quốc thọc sâu vào đất liền
đến hơn 40 km.
Bộ Quốc phòng Việt Nam quyết định điều động các sư đoàn bộ binh
của các quân khu từ tuyến sau lên. Quân dân 6 tỉnh biên giới chủ động tổ
chức lực lượng chiến đấu tại chỗ, cầm chân và đẩy lùi từng đợt tiến côngcủa
quân Trung Quốc trong khi chờ quân chủ lực lên ứng chiến. Cùng thời điểm, một
cuộc chuyển quân thần tốc lên biên giới phía Bắc của 3 quân đoàn chủ lực Việt
Nam diễn ra bằng đường biển, đường bộ, đường hàng không. Liên Xô tương trợ cho
Việt Nam bằng cách lập cầu hàng không lớn cơ động các đơn vị tại mặt trận
Campuchia ra thẳng miền Bắc.
"Toàn thể già, trẻ, gái, trai đứng lên nhất tề bảo vệ tổ
quốc'
Trước tình thế cấp
bách, ngày 4/3/1979, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi đồng bào và
chiến sĩ cả nước nhất tề đứng lên bảo vệ tổ quốc.
Sáng 5/3, chương trình phát thanh 90 phút thường ngày của Đài
tiếng nói Việt Nam phát bản tin đặc biệt kêu gọi: "Hỡi đồng bào và
chiến sĩ yêu quý! Quân thù đang giày xéo non sông, đất nước ta. Độc lập,
tự do, chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta đang bị xâm phạm. Hòa bình và ổn định ở
Đông Nam châu Á đang bị đe dọa. Dân tộc Việt Nam ta phải ra sức chiến đấu để tự
vệ... Toàn thể đồng bào các dân tộc anh em trong cả nước, các tôn giáo, các
đảng phái, già, trẻ, gái, trai hãy phát huy truyền thống Diên Hồng, triệu người
như một, nhất tề đứng lên bảo vệ tổ quốc"
.
.
|
Lệnh tổng động viên
được đăng trên báo Nhân dân ngày 6/3/1979. Ảnh: Hoàng Phương.
|
Ngay sau lời kêu gọi, Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp phiên bất
thường dưới sự chủ trì của Chủ tịch Trường Chinh. Theo đề nghị của Hội
đồng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra quyết định tổng động viên trong cả
nước. Mọi công dân trong lứa tuổi do luật định đều phải gia nhập lực lượng vũ
trang theo kế hoạch của Hội đồng Chính phủ; huy động mọi nhân lực, vật lực, tài
lực cần thiết để đảm bảo nhu cầu của cuộc kháng chiến cứu nước.
Cùng ngày, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký sắc lệnh 29 - LCT ra
lệnh tổng động viên trong cả nước. Hội đồng Chính phủ ban hành nghị
định về việc thực hiện quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân. Trong đó, yêu
cầu nam từ 18 đến 45 tuổi, nữ từ 18 đến 35 tuổi có đủ điều kiện, đều gia
nhập hàng ngũ du kích và tự vệ. Ngoài ra, ai tự nguyện đều được đưa vào tổ chức
vũ trang quần chúng. Khi xảy ra chiến sự ở địa phương, trừ những người được
phép sơ tán đi nơi khác, còn tất cả mọi người phải ở lại làm nhiệm vụ chiến đấu
và phục vụ chiến đấu.
Bài xã luận trên báo Nhân dân ra ngày 5/3/1979
nêu rõ "Lời kêu gọi của trung ương là lời hịch quyết chiến quyết thắng
của tổ quốc. Tất cả con em đất nước Việt Nam đang đi vào cuộc chiến đấu mới: cả
nước đánh giặc, toàn dân là lính"… 50 triệu người Việt Nam khi ấy
đã chuẩn bị sẵn sàng cho tình thế chuyển từ thời bình sang thời chiến.
Lệnh tổng động viên được ban bố, cũng trong ngày 5/3/1979 Trung
Quốc bất ngờ tuyên bố rút quân, và rêu rao hoàn thành mục tiêu "dạy
cho Việt Nam một bài học". Ngày 7/3/1979, thể hiện thiện chí hòa bình,
Việt Nam tuyên bố cho phép Trung Quốc rút quân.
Ngày 18/3, Trung Quốc hoàn thành việc rút quân. Trước khi rút,
chúng còn tàn phá một số làng mạc, phá hoại công trình di tích, bệnh viện,
trường học, giết hại nhiều người dân vô tội
.
.
|
Chiến sĩ Hà Ngọc Thơ
(đoàn H45 Hoàng Liên Sơn) bị thương khi cùng đồng đội tiêu diệt quân Trung
Quốc xâm lược. Ảnh tư liệu: Hoàng Như Thính.
|
Lệnh tổng động viên duy nhất từ 1975 cho đến nay
PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà, Viện trưởng Lịch sử Đảng, nguyên đại tá,
Chính ủy Sư đoàn 308 nhớ lại, thời điểm ra lệnh tổng động viên, ông đang
công tác ở Viện Lịch sử quân sự (Bộ Quốc phòng). Nghe lệnh, cả Hà Nội sục sôi
bởi "không người dân nào có thể khoanh tay khi đất nước lâm
nguy". "Trước khi quân Trung Quốc đánh sang, chúng tôi đã được
huy động đi đào chiến hào trên các ngọn đồi, khu vực Sóc Sơn, ngoại thành Hà
Nội. Phòng tuyến ấy được kéo dài đến tận các tỉnh biên giới phía Bắc. Tức
là, chúng ta đã có sự chủ động phòng thủ", ông kể.
Từ khắp các công, nông trường, xí nghiệp, thôn xóm có hàng nghìn
lá đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ. Trong phòng truyền thống của Đại học
Khoa học Xã hội Nhân văn ngày nay vẫn còn lá đơn viết bằng máu của thầy giáo
Nguyễn Chiều, khi đó là giáo viên khoa Sử, Đại học Tổng hợp với quyết tâm:
"Cho tôi trở lại quân đội bảo vệ tổ quốc".
Ông Hà phân tích, thời điểm tổng động viên, Hà Nội và cả nước đã
sẵn sàng để bước vào một cuộc kháng chiến. Tính từ năm 1975 đến nay, đó là lệnh
tổng động viên duy nhất được ban hành. Trước đó năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng ký Sắc lệnh Tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực của toàn thể
nhân dân để phục vụ cho nhu cầu kháng chiến chống Pháp đang đến giai đoạn tổng
phản công. Trong kháng chiến chống Mỹ, lời kêu gọi đồng bào và chiến
sĩ cả nước năm 1966 của Hồ Chủ tịch và những đợt huy động lực lượng dồn sức cho
chiến trường miền Nam vào các năm 1972, 1974 chưa được gọi là tổng động viên.
"Từ khi lệnh tổng động viên được ban bố đến khi quán triệt
đến toàn quân, toàn dân thì phải cần một quãng thời gian nhất định. Lệnh mới
được ban ra, Trung Quốc rút quân nên lệnh tổng động viên chưa kịp thực hiện. Dù
chúng ta không mong muốn, nhưng nếu quân Trung Quốc còn ở lại thì chắc chắn
lệnh tổng động viên sẽ được thực hiện rất nhanh", ông đánh giá.
Cuộc chiến biên giới phía Bắc chính thức diễn ra từ ngày 17/2
đến ngày 5/3/1979 nhưng xung đột biên giới kéo dài dai dẳng đến tận năm 1988.
Sau khi tuyên bố rút quân, Trung Quốc vẫn duy trì thường xuyên nhiều sư đoàn,
trung đoàn độc lập áp sát biên giới Việt Nam gây căng thẳng nhằm lấn chiếm lãnh
thổ. Có thời điểm 1984-1986, chiến sự diễn ra ác liệt ở mặt trận Vị Xuyên (Hà
Giang) khi quân đội Việt Nam tổ chức phản công giành lại các điểm cao biên giới
bị quân Trung Quốc lấn chiếm trái phép.
Nhiều đợt nhập ngũ vẫn diễn ra, các đơn vị chủ lực của quân đội
Việt Nam thay phiên nhau đưa quân lên bổ sung cho chiến trường phía Bắc. Hàng
chục nghìn thanh niên Việt Nam lứa tuổi 18-20 đã mãi mãi nằm lại nơi biên giới
phía Bắc trong cuộc chiến chống lại quân Trung Quốc xâm lược.
Tháng 11/1991 Việt Nam - Trung Quốc tuyên bố bình thường hoá
quan hệ
.
.
Hoàng Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét