“Đánh tư
sản”
ở
miền
nam sau 1975
Tác giả: Tú Hoa
.KD: Năm 1977, lần đầu tiên vào miền
Nam công tác, và khi đó đang là chiến dịch “đánh tư sản”. Chuyến đi bổ ích như
một trang văn học thấm đẫm hơi thở đời sống. Và chuyến đi đó đã cho mình một
cảm nhận cực kỳ quan trọng, dù chỉ là cô phóng viên còn quá trẻ, 26 tuổi đầu,
quan sát đời sống với nhiều non nớt nhưng đồng thời rất tỉnh táo nhận biết thực
và ảo- để chọn lựa cách đi. Nay đọc được bài này. Xin đăng lên để bạn đọc chia
sẻ.
—————–
Sài Gòn trước 1975
I. ĐÁNH TƯ SẢN
ĐÁNH TƯ SẢN cũng là một sự kiện chấn
động lịch sử Việt Nam ngang hàng sự kiện THUYỀN NHÂN VIỆT NAM và chỉ xảy ra sau
ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Sự kiện ĐÁNH TƯ SẢN do Hà Nội thực
hiện đối với người dân miền Nam Việt Nam theo Quyết Định mang số
111/CP vào ngày tháng 4 năm 1977 do Phạm Hùng ký chỉ đặc biệt nhằm vào việc
tịch thu nhà cửa đất đai của nhân dân miền Nam
Các đợt ĐÁNH TƯ SẢN đối với người
dân miền Nam được Hà Nội cho ký số X1, X2 và X3.
Đợt X1 được bắt đầu vào sáng ngày
11 tháng Chín năm 1975 xảy ra khắp 17 tỉnh thành miền Nam và thành phố Sài Gòn.
Đợt này chủ yếu nhắm vào nhà của các cư dân thành thị, tịch thu nhà và cưỡng
bức toàn bộ những nạn nhân phải đi về vùng Kinh Tế Mới sống. Đợt X1 này
tập trung vào những người dân Việt gốc Hoa vốn đã di dân vào miền Nam Việt Nam
từ cuối triều Minh, đầu triều nhà Thanh, sanh sống thanh công tại miền Nam ngót
nghét hơn 200 năm.
Đợt X2 được Hà Nội tiến hành từ tháng Ba
năm 1978 và được kéo dài cho đến sau Đổi Mới, tức là khoảng năm 1990 thì mới
chấm dứt. Đợt này chủ yếu nhắm vào tư thuơng, tiểu tư sản, các thành phần sản
xuất nhỏ vốn rất đa dạng và phồn thịnh trong nền kinh tế tự do do chính phủ
Việt Nam Cộng Hòa khuyến khích hậu thuẫn cho quốc dân từ bấy lâu.
Nền công nghiệp nhẹ, sản xuất đồ sài gia
dụng trong nhà của Việt Nam đã hoàn toàn chính thức bị phá hũy. Người dân Việt
Nam sẽ không còn thấy các sản phẫm tự hào của dân tộc như nồi nhôm hiệu Ba Cây
Dừa , xà-bông (savon) hiệu cô Ba, xe hơi hiệu La Đalat, hiệu đèn trang trí
Nguyễn Văn Mạnh, …etc…. Không những thế, các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẫm
như đường, bột giặt, giấy, …etc cũng bị tê liệt vì chủ nhân bị quốc hữu hóa.
Riêng tại Sài Gòn, thì báo Tuổi Trẻ đã
phải thừa nhận là đã có trên 10000 tiệm bán bị đóng chỉ qua một đêm, khiến một
viên thuốc trụ sinh cũng không có mà mua, mà dùng. Nhà sách Khai Trí lừng lẫy,
biểu tượng của cả Sài Gòn cũng bị báo đài tại Sài Gòn lúc bấy giờ rêu rao là tư
bản và cần phải tịch thu. Nhà sách Khai Trí vốn đã từ tâm giúp đỡ biết bao văn
nghệ sĩ của miền Nam, âm thầm thực hiện đường lối khai dân trí của cụ Phan Chu
Trinh cho dân tộc
Riêng về chỉ thị 43 của Bộ Chính Trị
vào tháng Năm năm 1978 đã quốc hữu hóa toàn bộ đát đai của nông dân miền
Nam vào tay nhà nước thông qua hình thức “Tập Đoàn Sản Xuất” dẫn đến nạn đói
năm 1979 ngay liền sau đó vì lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp bị sút giảm
toàn diện tại miền Nam.
Tình trạng ở nông thôn miền Nam càng
kinh khiếp và dữ dội hơn ở Sài Gòn dù không ồn ào bằng.
Tổng số lúa mà nông dân miền Nam bị chở
ra ngoài Bắc không thông qua quy chế thu mua được loan truyền là khoảng 4 triệu
tấn gạo vào đầu năm 1978 trên đài phát thanh Hà Nội khi ca ngợi thành tích ĐÁNH
TƯ SẢN của các đảng bộ địa phương miền Nam. Đương nhiên, con số chính thức được
các nông dân kêu ca là lớn hơn nhiều.
Sang đến năm 1979, Võ Văn Kiệt đã phải
loan báo thu mua lúa từ nông dân với giá cao gấp cả ngàn lần giá quy định của
Nhà Nước (!) để cứu vãn tình thế bất mãn không còn dằn được nữa từ nông dân
miền Nam trước những đợt thu lúa từ năm 1977 trở đi.
Song song với chiến dịch X2 là chiến
dịch X3 đặc biệt tập trung tại Sài Gòn. Sau chiến dịch X3, hàng ngàn gia đình
cán bộ miền Bắc đã vào Sài gòn sinh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu. Theo
thừa nhận ngắn ngủi từ báo SGGP và báo Công An khi bàn đến vấn đề trả lại nhà
cho những “đối tượng” bị đánh tư sản oan ức vào tháng 9 năm 1989, ước tính lên
đến khoảng 150 ngàn người thuộc gia đình cán bộ gốc miền Bắc vào Sài Gòn sinh
sống trong những ngôi nhà bị tịch thu.
Đỗ Mười, sau này là Tổng Bí Thư Đảng,
lúc bấy giờ thay thế ông Nguyễn Văn Linh làm trưởng ban cải tạo TW Vào ngày 16
tháng Hai năm 1976 là người chỉ huy trực tiếp đợt thực hiện này.
Trong chiến dịch này, số lượng người Sài
Gòn phải bị mất hết tài sản và bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI là khoảng SÁU TRĂM
NGÀN NGƯỜI, tạo ra một sự hoảng sợ hoang man chưa từng có trong lịch sử phát
triển Sài Gòn qua các triều đại. Cuối đợt X3 , ghi nhận của Hà Nội là có khoảng
950 ngàn người Sài Gòn bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI, không hoàn thành chỉ tiêu
đề ra là một triệu hai người!
Sức mạnh kinh tế Sài Gòn tự nhiên bị phá
hoại đi đến kiết quệ hoàn toàn sau chiến dịch X3 do Đổ Mười trực tiếp chỉ huy.
Hơn 14 NGÀN cơ sở tiểu thủ công nghiệp tại Sài Gòn rất cần cho nền kinh tế quốc
dân, với khoảng 270 ngàn nhân công hoàn toàn bị trắng tay, đóng cửa với tổng số
thiệt hại tài sản trước mắt lên đế gần chín đến hai mươi mốt tỷ Mỹ kim và tiến
trình phát triển công nghệ của đất nước trong tự cường hoàn toàn KHÔNG CÒN HY
VỌNG để phục hồi.
Riêng về tổng số vàng, nữ trang tịch tư
từ tư bản ở miền Nam được các báo đài của Đảng thừa nhận lên đến 4000
lượng vàng- nhưng đây chỉ là con số tượng trưng tính riêng ở Sài Gòn từ tháng
Năm năm 1977 qua tháng Hai năm 1978 mà thôi. Cả thảy trên dưới gần 35 ngàn
lượng vàng, tính luôn cả nữ trang và kim cương thu trong những đợt ĐÁNH TƯ
SẢN ở miền Nam.
Xin được ghi chú thêm là chỉ nội vụ Hà
Nội tiến hành cho phép người Việt gốc Hoa ra đi bán chính thức nếu đóng khoảng
120 lượng vàng đã góp vào gần 10 ngàn lượng vàng tổng cộng.
Trung bình , mổi người dân miền Nam nằm
trong đối tượng bị ĐÁNH TƯ SẢN mất trắng khoảng 9 lượng vàng không tính đất
đai, nhà cửa, phụ tùng thiết bị , đồ cổ, và các tài sản khác. Trữ lượng vàng
của toàn bộ người dân miền Nam có thể lên đến 250 ngàn lượng vàng tính đến năm
1975 nhưng đồng bào khôn khéo giấu đi và phản kháng cũng như đem theo khi di
tản
.
.
II. KINH TẾ MỚI:
Tất cả những ai tại Sài Gòn bị Sản Hà
Nội tịch thu nhà , tài sản điều phải đi về vùng KINH TẾ MỚI, là những nơi mà cơ
sở hạ tầng cho sinh hoạt chưa được xây dựng, trong đó có cả điện nước, trường
học và bệnh xá. HƠN SÁU TRĂM NGÀN nạn nhân bị cưỡng bức qua đêm phải rời Sài
Gòn để về những vùng KINH TẾ MỚI và bỏ lại hết toàn bộ tài sản của mình từ nhà
ở, của cải, đồ đạc cho Đảng quản lý.
Những người bị tịch thu nhà và
sau đó dồn lên vùng kinh tế mới
.
Chỉ
tiêu đề ra là phải đưa cưỡng bức khoảng gần một triệu người Sài Gòn ra các Vùng
KINH TẾ MỚI và buộc họ phải bỏ hết tài sản nhà cửa lại cho Hà Nội quản lý. Tổng
kết từ các báo cáo thành tích cải tạo XHCN của Đảng, số người bị cưỡng bức đi
Kinh Tế Mới từ Sài Gòn qua mười năm Quá Độ- ĐÁNH TƯ SẢN như sau:
THỜI KỲ
|
CHỈ TIÊU
|
KẾT QUẢ THỰC HIỆN
|
GHI CHÚ
|
1976- 1979
|
4 triệu người
|
1,5 triệu người
|
95% là từ Sài Gòn
|
1979-1984
|
1 triệu người
|
1,3 triệu người
|
50% là từ Sài Gòn
|
Khi đến vùng KINH TẾ MỚI để sống tham
gia các tập đoàn sản xuất hay còn gọi tắt là Hợp Tác Xã, “thành quả lao động”
của các nạn nhân này được phân phối chia ra như sau:
.
.
– 30% trả thuế
– 25% góp cho chính phủ theo giá thu mua
của nhà nước;
– 15% trả lương cho cán bộ quản lý ;
– 30% còn lại chia cho các thành viên
tính theo số điểm thuế lao động
.
.
Như vậy là sản phẩm nông nghiệp từ các
nông trường vùng Kinh tế Mới đã bị Đảng tịch thu hết 70 % và chỉ còn 30% là
chia lại cho các thành viên, vốn là các nạn nhân bị tịch thu nhà cửa sống trong
vùng Kinh Tế Mới.
Thế là cả triệu người dân Sài Gòn đột
nhiên lâm vào cảnh đói kém trầm trọng như là đòn trả thù hữu hiệu của chế độ Hà
Nội đối với những bị liệt vào thành phần không phải “Cách Mạng”, ngụy quân ngụy
quyền và tiểu tư sản.
Ước tính có khoảng 300 ngàn trẻ em bị
thất học vì sống ở các vùng Kinh Tế Mới này. Nhân dân miền Nam- cả triệu người
đang sống sung túc bổng lao vào chịu đói kém khổ sở chưa từng có. Nạn đói kém
lan tràn khắp mọi nơi, mọi nhà trước thảm cảnh.
Hàng vạn người dân Sài Gòn đã phải bỏ
trốn khỏi các vùng Kinh Tế Mới, đi ăn xin trên đường Về Sài Gòn, đói rách khổ
sở. Đây là thời kỳ khốn khổ bi đát nhất trong lịch sử phát triển Sài Gòn.
III. Quyết Định 111/CP của Hà
Nội về việc “Đánh tư sản ” ở miền Nam Việt Nam
Quyết định 111/CP của Hà Nội là một tài
liệu chứng quan trọng. Quyết định này là nguồn gốc của mọi khổ đau, nghèo
khó của người dân miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 và là lý do
Việt Nam bị tụt hậu về mọi mặt, đứng hàng thứ ba nghèo nhất thế giới theo tuyên
bố của Liên Hiệp Quốc vào năm 1985
.
.
Trích :
IV. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CỦA CÁC TỔ
CHỨC VÀ CÁ NHÂN THUỘC BỘ MÁY CAI TRỊ CỦA NGUỴ QUÂN NGUỴ QUYỀN VÀ ĐẢNG PHÁI PHẢN
ĐỘNG
1. Mọi loại nhà cửa, đất đai
trước ngày Giải phóng do chính quyền Mỹ nguỵ quản lý hoặc dành cho những tổ
chức hay cá nhân, thuộc nguỵ quân nguỵ quyền và các tổ chức đảng phái phản động
sử dụng, nay đều là tài sản công cộng, do Nhà nước trực tiếp quản lý.
2. Nhà cửa, đất đai của những
người sau đây đều do Nhà nước trực tiếp quản lý:
– Sĩ quan nguỵ quân cấp từ
thiếu tá trở lên.
– Sĩ quan cảnh sát từ cấp trung uý trở lên.
– Cán bộ thuộc bộ máy cai trị của nguỵ quyền đã giữ chức vụ, từ Chủ sự phòng cơ quan Trung ương, Ty phó, Quận phó trở lên.
– Các phần tử ác ôn, mật vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.
– Sĩ quan cảnh sát từ cấp trung uý trở lên.
– Cán bộ thuộc bộ máy cai trị của nguỵ quyền đã giữ chức vụ, từ Chủ sự phòng cơ quan Trung ương, Ty phó, Quận phó trở lên.
– Các phần tử ác ôn, mật vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.
Điều IV của QĐ 111/CP đã cho thấy rõ gia
đình thân nhân của quân lực Việt Nam Cộng Hòa phải chịu mất nhà mất cửa rất thê
thảm. Mọi quy chụp là phản động hay Ngụy quyền thì coi như là bị tịch thu nhà
cửa.
Dòng chữ cuối cùng của khoản 2 điều IV
của QĐ 111/CP có ghi rõ là nhà cửa đất đai của các thành phần sau đây bị tịch
thu: “Các phần tử ác ôn, mật vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.”
Bởi không có định nghĩa rõ ràng thế nào là thành phần ác ôn nên các viên chức
cán bộ Cộng Sản tha hồ kết tội thuờng dân vô tôi vạ là thành phần ác ôn của
“Ngụy quyền” để tư lợi cướp bóc nhà cửa cho riêng mình, không cần tòa án nào
xét xử cả. Ai ai cũng có thể là điệp viên CIA, hay là có lý lịch ba đời liên
quan đến Ngụy quân, và điều có tư tưởng phản động và cần phải tịch thu nhà cửa
dựa trên điều khoản này của Q Đ 111/CP.
Không khí hoảng sợ , đau thuơng oán hận
lan tràn khắp cả miền Nam
.
.
IV. Hậu quả ĐÁNH TƯ SẢN của Hà Nội:
Theo các chuyên gia của Liên Hiệp Quốc
về kinh tế, Việt Nam tụt hậu hơn 50 năm về kinh tế vì các chính sách đánh tư
sản này của Cộng Sản Hà Nội lên đầu người dân miền Nam. Việt Nam là quốc gia
nghèo đứng hàng thứ ba trên thế giới vào năm 1985.
Cho đến giờ phút này, người dân Việt Nam
vẫn chưa thực sự có quyền TƯ HỮU mà chỉ có quyền SỬ DỤNG, nghĩa là thảm họa bị
ĐÁNH TƯ SẢN trong quá khứ vẫn treo lơ lửng trên đầu người dân Việt Nam bất cứ
lúc nào cũng có thể xảy ra chiếu theo luật pháp hiện hành của Hà Nội.
Kinh tế của Việt Nam mãi đến năm 1997
mới thực sự khắc phục được một phần hâu quả của 10 năm Quá Độ, ĐÁNH TƯ SẢN do
Hà Nội tiến hành từ năm 1976 đến năm 1987.
Từ năm 1987 đến năm 1997, Hoa Kỳ đã nhắm
mắt làm ngơ cho những người Việt di tản hay Vượt Biên định cư tại Mỹ gởi tiền
hàng ồ ạt về cứu đói thân nhân mình và vực dậy sự sinh động về kinh tế vốn có
ngày nào của miền Nam.Tổng số ngoại tệ gởi về lên đến 8 đến 15 tỷ Mỹ kim mỗi
năm trong suốt 10 năm đó.
Sang đến năm 1989, báo SGGP từ Sài Gòn
chịu 90 % ngân sách của cả nước và bắt đầu tiến hành trả lại nhà cho một số nạn
nhân bao năm trời khổ ải, cũng như bắt đầu bàn tới vấn đề cho phép các sĩ quan
quân lực Việt Nam Cộng Hòa được bán nhà vốn hầu hết đã bị tịch thu nếu ra đi
theo chương trình HO-Special Release Reeducation Center Detainee Resettlement
Program (Chương trình tái định cư phóng thích đặc biệt tù nhân trung tâm cải
tạo)
Chỉ số nghèo đói của Việt Nam đứng hàng
thứ ba trên thế giới và chỉ mới có những tiến bộ cải thiện khi World Bank và
USAID tăng tốc trợ giúp.
Mọi tài liệu, hình ảnh ca ngợi ĐÁNH TƯ
SẢN từ các báo chí đài phát thanh của Đảng cũng bị dẹp dần đi.
Hà Nội tới ngày nay vẫn chưa chính thức
xin lỗi hai mươi mốt triệu người dân miền Nam về hành động này
.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét