Ngày 05/11/2015, Chủ tịch kiêm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc sang thăm Việt nam, chuyến thăm đầu tiên của lãnh đạo cao nhất Trung Quốc sau 10 năm tính từ chuyến thăm trước đó của người tiền nhiệm ông ta là ông Hồ Cẩm Đào. Là một nước có truyền thống bá quyền hàng nghìn năm lịch sử, Trung Quốc luôn chú ý đến bộ mặt và từng cử chỉ ngoại giao, họ coi việc các lãnh đạo láng giềng đến thăm hàng năm là một điều đương nhiên, giống như chư hầu vào chầu Thiên Tử, còn việc Thiên Tử đến thăm chư hầu thì rất hãn hữu và luôn được coi là một chuyến tuần thú để úy lạo chư hầu.
Thế giới đã bước sang thế kỷ 21, nhưng lối nghĩ bá quyền của Trung Quốc không thay đổi. Vì thế mà trong 10 năm từ 2005 - 2015, có rất nhiều chuyến thăm viếng của các đời Tổng Bí Thư Việt Nam tới Trung Quốc, nhưng số lần ngược lại thì đến giờ mới là chuyến đầu tiên. Bằng việc tước quyền đối đẳng trong quan hệ ngoại giao, Việt Nam tự biến thành một dạng chư hầu kéo dài dù lịch sử nhân loại đã sang trang. Khoan hãy nói về vấn đề quốc thể, hãy xét về mặt lợi ích sống còn quốc gia xem điều đó cuối cùng sẽ dẫn đất nước đi đến đâu?
Việc ông Tập đến Việt Nam ở thời điểm này không phải là điều ngẫu nhiên. Quan hệ song phương Việt Nam - Trung Quốc đã xuống thấp nhất kể từ giữa năm 2014, khi Trung Quốc đưa giàn khoan HaiYan 981 vào hoạt động sâu trong thềm lục địa Việt Nam. Tiếp đó, việc Trung Quốc xây các đảo nhân tạo với diện tích hàng nghìn hecta tại khu vực Trường Sa càng khiến lợi ích quốc gia của Việt Nam bị đặt vào sự đe dọa sống còn. Nền kinh tế suy thoái kéo dài suốt từ năm 2007 đến năm 2014 khiến áp lực dân chúng đối với chính quyền ngày một gay gắt. Để tìm lối thoát, Đảng Cộng Sản Việt Nam quay sang Mỹ và phương Tây. Điều may mắn là thời điểm này trùng khít với chiến lược xoay trục của nước Mỹ sang Á Châu. Nhiều yếu tố hội tụ đã dẫn tới chuyến thăm lịch sử của ông Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu ĐCS Việt Nam sang Hoa Kỳ vào 06/07/2015. Dù thể chế chính trị rất khác nhau, Tổng thống Mỹ Obama vẫn dành cho ông Trọng sự đón tiếp với nghi thức nguyên thủ quốc gia. Các cuộc hội đàm song phương sau đó đã dẫn tới sự tăng tốc trong quan hệ hai bên, theo đó Mỹ thừa nhận sự tồn tại của thể chế hiện hành ở Việt Nam, đặc biệt, hiệp định TPP sau đó được cả hai phía coi là một nền tảng để xây đắp quan hệ hợp tác mới trong thế kỷ 21.
Ngày 05/10/2015, sau nhiều vòng đàm phán rất khó khăn, với sự thúc đẩy rất lớn từ Mỹ và Nhật Bản, những nền kinh tế dẫn đầu trong Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương, TPP được công bố đã kết thúc các vòng đàm phán, sau 5 ngày căng thẳng đàm phán xuyên đêm. Đây là một khoảng khắc có tính lịch sử với nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Ngược lại, nó gây ra một cú sốc lớn đối với Trung Quốc, nước bị gạt ra bên lề và hiểu bản chất của TPP đối với mình chính là cái gì. Báo chí Trung Quốc gần như ngay lập tức định danh TPP chính là một dạng Nato trong kinh tế để đối đầu với Trung Quốc. Trên thực tế, họ không hề sai vì TPP chính là hàng rào mà Mỹ - Nhật lập ra để từng bước hạn chế dòng thương mại của Trung Quốc tràn vào thị trường của họ. Bằng các ràng buộc về quan thuế, bằng các rào cản về nguồn gốc xuất xứ, TPP là bước đầu tiên để Mỹ chặn thặng dư thương mại của Trung Quốc đối với mình. Nó đồng thời nắn dòng thương mại ấy sang các nước thành viên. Những nước có cơ cấu xuất khẩu tương đồng nhiều mặt hàng với Trung Quốc như Việt Nam được lợi lớn nhất, vì tự nhiên được hưởng khoảng trống thị trường mà Trung Quốc bị gạt ra. Khác với WTO chỉ là một bộ quy tắc thương mại, TPP là một bàn cỗ được dọn sẵn cho nhiều nước thành viên. Nhiều phân tích kinh tế dự báo sức tăng trưởng rất lớn của xuất khẩu Việt nam, và trước hết là sự gia tăng mạnh của dòng vốn đầu tư để tạo ra các nhà máy mới, giúp Việt Nam chuẩn bị sẵn nguồn hàng xuất khẩu cho thị trường mà TPP mang lại. Với nhiều người Việt Nam, TPP còn đem lại cơ hội xóa bỏ một nỗi ám ảnh đã kéo dài nhiều chục năm khi hứa hẹn các mặt hàng thực phẩm chất lượng cao và giá rẻ từ Mỹ, Úc sẽ tràn vào thay thế các hàng thực phẩm độc hại nhập từ Trung Quốc, chấm dứt cơn ác mộng về nạn diệt chủng từ từ đã kéo dài hàng thập kỷ. Sức hấp dẫn của TPP lớn đến mức các lãnh đạo cộng sản Việt Nam dường như vượt qua được sự e dè về các điều khoản liên quan đến công đoàn độc lập, thứ có thể làm suy yếu quyền lực cai trị của họ, để thúc đẩy nỗ lực gia nhập TPP. Việc Việt Nam có mặt trong danh sách 12 nước sáng lập viên của TPP, có thể giúp thay đổi bộ mặt đất nước trong khoảng 1 thập kỷ tới.
Trung Quốc coi TPP là một điềm không lành. Giữa năm 2015, Trung Quốc ba lần tiến hành phá giá đồng tiền khi dòng thương mại xuất khẩu của họ suy giảm kỷ lục. Trong cùng thời gian, thị trường chứng khoán của họ lao dốc mất 1/3 giá trị và dòng tiền chạy ra nước ngoài bình quân mỗi tháng xấp xỉ 50 tỷ USD. Trong khoảng 4 thập kỷ liên tiếp, thặng dư xuất khẩu là điều làm nên sự thần kỳ trong tăng trưởng kinh tế Trung Quốc. Nhưng có vẻ thời kỳ huy hoàng đã qua, khi họ phải đối đầu với cuộc chiến thương mại âm thầm mà Mỹ dẫn dắt. Số liệu thống kê hai tháng sau đó cho thấy việc phá giá tiền của Trung Quốc không đem lại hiệu quả. Họ buộc phải chấp nhận một thực trạng mới rằng Trung Quốc không còn được chào đón trên thế giới sau những gì họ đã thể hiện quá đà sau nhiều năm “thao quang dưỡng hối”. Đây chính là kết quả của sự sai lầm chiến lược, khi họ lựa chọn lối bành trướng bằng sức mạnh thay vì việc đóng góp cho thế giới bằng quyền lực mềm và ảnh hưởng quốc gia.
Cách bành trướng hung hăng của Trung Quốc sẽ không thay đổi, vì đó là bản chất của họ. Không thể xóa được cái nhìn nghi kỵ của các đối tác trên thế giới đối với mình, để có lại các điều kiện thuận lợi giống như trong quá khứ, do đó, Tập Cận Bình tìm cách phá băng nhằm thiết lập một luật chơi thương mại mới, đối trọng với TPP và lấy Trung Quốc làm trung tâm. Chiến lược một vành đai, một con đường, nhằm thiết lập một dòng thương mại xuyên Á Âu, nhằm tiếp tục đẩy mạnh sự thâm nhập của hàng hóa Trung Quốc ngày càng sâu hơn vào vành đai mà Trung Quốc vạch ra. Chuyến đi phá băng đầu tiên của Tập là tới châu Âu. Tập mang theo 30 tỷ USD hợp đồng hợp tác tới nước Anh sau thất bại thảm hại của chuyến thăm Mỹ. Người Anh hoan hỷ đón tiếp vì họ không chê tiền. Ngày 05/11/2015 Tập Cận Bình tới Việt Nam, lộ trình kế tiếp chính là Singapore, hai quốc gia sáng lập của Hiệp định TPP vừa ký kết, cũng đồng thời là những mắt xích rất quan trọng cho chiến lược một vành đai, một con đường mà Trung Quốc đang tìm cách thiết lập. Mục tiêu của chuyến đi khá rõ. Trung Quốc sẽ rất hài lòng nếu có thể làm chậm tiến trình phê duyệt TPP tại các quốc gia này, hoặc nếu khiến Việt Nam rút khỏi TPP và tích cực tham gia vào chiến lược mới của Trung Quốc thì càng tốt. Tập có thành công hay không? Đó là một câu hỏi rất khó trả lời ở thời điểm này. Giàn lãnh đạo của Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi, các phe cánh đấu đá rất ác liệt. Sự can thiệp và hậu thuẫn của Tập ở thời điểm này có thể giúp thay đổi cán cân với những phe nhóm có truyền thống thân Tàu. Đó cũng chính là lý do, hầu hết người Việt Nam nhìn nhận chuyến thăm của Tập một cách nghi kỵ sâu sắc.
Tập Cận Bình đã mang gì đến Việt Nam? Trong thông cáo gần đây nhất, Trung Quốc tuyên bố viện trợ cho Việt Nam 1 tỷ nhân dân tệ trong 5 năm (159 tr USD chia đều 5 năm), bổ sung khoản vay hạ tầng cho tuyến đường sắt đầy tai tiếng Cát Linh thêm 250 tr USD. Ngoài ra, là việc đồng ý chuyển mục đích sử dụng khoản vay 300 tr USD để xây dựng tuyến đường cao tốc Móng Cái - Vân Đồn. Những khoản tài chính quá nhỏ bé nếu đối chiếu với tổng số vốn ODA mà Nhật Bản đã viện trợ cho Việt Nam, tính đến 2015 đã là 20 tỷ USD. Có lẽ Tập Cận Bình cũng nhận ra, việc đổ thêm tiền vào Việt Nam sẽ không giúp ông ta xoay chuyển được thế cục ở đây, khi hầu như 90 tr dân Việt nam coi Trung Quốc là mối đe dọa sống còn, và mọi chế độ cai trị, dù tiến bộ hay phản động, chỉ có thể trì hoãn chứ không thể thay đổi được lối tư duy ấy. Hơn nữa, chiến lược thôn tính ở biển Đông của Trung Quốc chắc chắn không thay đổi. Trong chuyến viếng thăm London, Tập Cận Bình công khai tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như đường lưỡi bò ở biển Đông là những quyền lợi của Trung Quốc được truyền lại từ “cổ sử”. Việc người Tàu với khả năng làm hàng giả trứ danh nay vẽ ra một thứ cổ sử dởm mới thì không ai nấy làm lạ, nhưng tuyên bố này rõ ràng đặt lợi ích chiến lược của Trung Quốc và Việt nam vào thế đối đầu và không thể thay đổi.
Mục đích chính của Tập Cận Bình, do đó không phải là hòa bình hay nhượng bộ. Thông điệp duy nhất Tập mang theo là “Đại cục”. Thứ đại cục đang dẫn tới việc mất dần mòn lãnh thổ của Việt nam. Thứ đại cục khiến kinh tế Việt Nam ngày một lệ thuộc sâu vào Tàu. Thứ đại cục khiến người Việt nam chết dần chết mòn vì thực phẩm độc có nguồn gốc từ Trung Quốc. Biết chắc không ru ngủ được Việt Nam, Tập chuyển luận điệu sang tính tương đồng về chế độ, với lời phát ngôn vận mệnh Việt Nam và vận mệnh Trung Quốc gắn chặt với nhau. Luận điệu của Tập, có lẽ vẫn còn sức nặng với nhiều thành phần trong chế độ Việt nam, vốn muốn duy trì sự tồn tại của chế độ càng lâu càng tốt, với các đặc quyền từ quyền lực độc tài và lợi ích kinh tế vơ vét được càng nhiều càng tốt. Giống như hồi hội nghị Thành Đô ngày 3/09/1990, Trung Quốc đã thành công lôi kéo các lãnh đạo hàng đầu Việt Nam, bắt chặt tay nhau để duy trì chế độ. Lịch sử lại lặp lại vào ngày 5/11/2015, trong một bối cảnh khác và một hoàn cảnh khác.
Nhằm in đậm dấu ấn chuyến thăm của mình tới Việt Nam, Tập cố gắng để nó thành nhiều ngoại lệ. Trung Quốc đơn phương đòi cho Tập quyền phát biểu tại Quốc Hội Việt Nam, điều mà chưa có bất cứ nguyên thủ nào được làm khi đến thăm Việt Nam. Đòi hỏi của Tập được đáp ứng một cách miễn cưỡng. Dù sao, trong con mắt của các nhà quan sát quốc tế, động thái này gây được dấu ấn vì rõ ràng như thế vai trò của Trung Quốc vẫn còn rất mạnh ở Việt Nam. Có lẽ Tập muốn các đối tác phương Tây, có hệ thống chính trị khác biệt Việt Nam, ghi nhận những dấu ấn này nhằm làm tăng sự khác biệt giữa Việt Nam với các đối tác mới trong quá trình hội nhập. Theo dõi truyền thông quốc tế, có vẻ ít nhiều mong muốn của Tập đã có thành công.
Tập Cận Bình đang muốn nắn dòng lịch sử Việt nam. Và chính người Việt nam hiện nay, cần nỗ lực để tác động đến lịch sử của chính mình.
Quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, hiện nay rõ ràng là một quan hệ bất bình đẳng. Nền hòa bình giả hiệu mà Việt Nam đang có với Trung Quốc, thực ra đang dẫn tới cái gì? Về mặt bản chất, Việt Nam đang bị Trung Quốc chiếm đóng lãnh thổ. Lần chạm súng gần đây nhất là năm 1988, khi Trung Quốc nổ súng chiếm 6 đảo và đá tại Trường Sa. Sau hội nghị Thành Đô tháng 9/1990, dù vừa bị xâm lược, chế độ Việt Nam bắt tay với chế độ Trung Quốc để duy trì quyền cai trị trong làn sóng sụp đổ của các chế độ cộng sản tại Đông Âu, liệu như vậy Việt Nam đã có hòa bình? Hoàn toàn không, trong suốt 25 năm qua kể từ hội nghị Thành Đô, súng vẫn nổ lẻ tẻ trên biển Đông và mức độ khủng bố tàu ngư dân Việt Nam trên các ngư trường trong lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam thì ngày một leo thang. Số tàu chấp pháp và các tàu quân sự của Trung quốc ngày một nhiều thêm, đi kèm với mức độ ngày càng khốc liệt hơn trong việc đánh cướp, tống tiền và húc chìm tàu ngư dân Việt Nam. Năm 2015, báo chí đã nói đến việc ngư dân Lý Sơn bỏ biển lên bờ, họ đã tới giới hạn của sự chịu đựng khi cứ phải âm thầm đối mặt với cướp bóc và chết chóc. Các bước tiến xâm lăng của Trung Quốc trong suốt thời gian gọi là hòa bình ấy cũng chưa bao giờ dừng lại. Năm 2007, Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa, bao trọn các quần đảo chiếm đóng tại Biển Đông như một đơn vị hành chính chính thức. Năm 2013, Trung Quốc tập trung nỗ lực vào việc chiếm đóng bãi đá ngầm Scarborough do Philipin kiểm soát. Năm 2014, sau khi khởi công đóng mới thêm hai tàu sân bay và hạ thủy một loạt chiến hạm mới, được khuyến khích bởi hành động xâm lược Crimea của Nga, Trung Quốc vươn thêm một bước dài xuống phía Nam. Cùng lúc đưa giàn khoan HaiYan 981 vào hoạt động tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung quốc tiến hành mở một đại công trường xây 7 đảo nhân tạo tại các đảo đá chiếm đóng bất hợp pháp tại Trường Sa, mục tiêu không che dấu nhằm thiết lập những căn cứ liên hoàn Không - Hải quân và hậu cần khổng lồ giữa biển, làm bàn đạp vững chắc để kiểm soát hoàn toàn vùng biển phía Nam. Các bước tiến của Trung Quốc cho đến nay, hầu như đều không bị chặn lại.
Trong lúc lãnh thổ đang bị xâm lăng, dựa vào cái khái niệm về “đại cục”, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với Trung Quốc ngày một được thắt chặt theo hướng lệ thuộc ngày càng lớn vào Trung Quốc. Nhập siêu trong thương mại với Trung Quốc hiện nay hầu như nuốt trọn mọi khoản thặng dư Việt Nam có được từ các nước phương Tây. Nói cách khác, thay vì có một nền kinh tế tự chủ do thứ hòa bình “đại cục” mà Trung Quốc ban phát, kinh tế Việt Nam trở thành một hệ thống phái sinh, gia công và xuất hàng thay cho Trung Quốc. Đó là quan hệ thương mại chính thức, thống kê được. Trong khi đó, một cuộc chiến thương mại mang tính tàn sát khác được Trung Quốc âm thầm tiến hành. Do hệ thống độc tài đã làm suy đồi đến tận gốc rễ bộ máy công quyền, hầu như lực lượng hải quan, biên phòng, kiểm soát thị trường của Việt Nam đã bị vô hiệu hóa trước dòng thác hàng lậu Trung Quốc. Hàng lậu Trung Quốc nhập vào Việt Nam bằng mọi ngóc ngách trên tuyến biên giới kéo dài hàng nghìn cây số, đủ loại, đủ mặt hàng, không phải chịu bất cứ một khoản thuế nào ngoài tiền hối lộ, và nó bóp nghẹt nền kinh tế Việt Nam. Con số thống kê lộ ra vào cuối năm 2014, khi người ta đối chiếu thấy một khoản chênh lệch tới 20 tỷ USD hàng xuất TQ vào VN, giữa số liệu của tổng cục thống kê TQ và VN. Có nhiều cách giải thích vụng về từ Việt Nam cho khoản chênh lệch khổng lồ này, đại loại do khác biệt trong thống kê xuất xứ. Sự chênh lệch do thống kê xuất xứ có thể có, nhưng không quá một vài tỷ USD, toàn bộ phần chênh khổng lồ còn lại chính là hàng lậu. Trong số đó, đương nhiên là nhiều tỷ USD hàng thực phẩm độc hại, thứ đang tàn sát và làm thoái hóa giống nòi người Việt Nam một cách từ từ.
Cũng với chiêu bài đại cục, trong 25 năm qua Trung Quốc tìm cách thò tay can thiệp vào các chính sách chiến lược của Việt Nam. Hồi ký của nhiều viên chức về hưu cho thấy sự tác động lớn của Trung Quốc vào Việt Nam, nhằm trì hoãn việc ký kết BTA với Mỹ hồi năm 2000 (Hiệp định thương mại Việt Mỹ hiện đem lại kim ngạch song phương tới 35 tỷ USD năm 2014, trong đó Việt nam thặng dư thương mại với Mỹ tới 22 tỷ USD). Trung Quốc cũng can thiệp để chính phía Việt Nam làm chậm lộ trình gia nhập WTO của mình. Điều bi hài là Việt nam đã gia nhập WTO chậm hơn Campuchia tới 2 năm, khi nước láng giềng đã là thành viên chính thức của WTO từ 13/04/2004. Rất nhiều cơ hội lớn khác của Việt Nam đã bị bỏ lỡ, để hội nhập sâu hơn với thế giới và tận dụng triệt để hơn các cơ hội phát triển với sự can thiệp ngầm về chính sách của Trung Quốc.
Đến giờ có lẽ mọi chuyện đã được làm sáng tỏ, thực chất trong 25 năm qua, Việt Nam và Trung Quốc có thực sự có hòa bình? Rõ ràng là không, nhưng bằng thứ hòa bình giả hiệu trên khái niệm gọi là “Đại Cục”, Trung Quốc một mặt ngày một vươn dài tay chiếm đoạt lãnh thổ Việt nam, mặt khác lũng đoạn và bóp nghẹt nền kinh tế Việt Nam và tìm cách kìm hãm Việt nam càng nhiều càng tốt.
Cái gì đã khiến Trung Quốc thành công với nền hòa bình giả dối ấy? Đó chính là cái mồi “đại cục”, mà lực lượng đớp mồi, chính là thể chế cai trị hiện nay ở Việt Nam, những người bắt tay với Trung Quốc từ hội nghị Thành Đô 03/09/1990 chỉ để bảo tồn quyền cai trị và chế độ càng lâu càng tốt.
(Anh nợ các bạn nốt phần còn lại trong khuya muộn hôm nay hoặc ngày mai. Anh quyết định biến phần còn lại thành một phân tích kinh tế chi tiết để chỉ rõ tương quan so sánh về sức mạnh kinh tế mà chế độ đã dẫn Việt Nam đi trong 25 năm qua so với các nước trong khu vực và so sánh với chính Trung Quốc, để thấy rằng chúng ta đã thực sự làm được gì và đang đi về đâu, nếu cứ tiếp tục theo cách thức này)
Chúng ta quay trở lại câu hỏi ban đầu: “Tương lai nào cho Việt Nam với chế độ cai trị hiện nay?”
Một lập luận quen thuộc từ lâu của Ban Tuyên Giáo Trung Ương và của Bộ Chính Trị Việt Nam với dân chúng mỗi khi nhắc đến việc Trung Quốc đang xâm lược Việt Nam: “Đồng bào cứ yên tâm, mọi việc đã có Đảng và nhà nước lo”. Vậy Đảng và nhà nước, đã và đang dẫn chúng ta đi đến đâu trong suốt 25 năm qua.
Hãy bắt đầu bằng số liệu kinh tế năm 1980. Do World Bank không công bố dữ kiện kinh tế Việt Nam các năm 1976 - 1979, anh Lãng lấy mốc 1980 làm mốc xuất phát quá trình điều hành kinh tế của Đảng Cộng Sản ở Việt Nam kể từ khi thiết lập được quyền cai trị trên khắp cả nước sau ngày 30/04/1975. Năm 1980, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 226 USD. Con số của Trung Quốc ở thời điểm đó là 309 USD/người. Tỷ lệ GDP/người của Trung Quốc so với Việt Nam năm 1980 là 1,37 lần. Cũng so sánh về con số đối chiếu với 5 nước Asean thuộc nhóm trên (Singapore, Malaysia, Indonesia, Thailand, Philippines) và Hàn Quốc, ta có bảng dữ liệu đối chiếu sau trong một giai đoạn 31 năm, từ 1980 - 2011:
Biểu đồ 1. Biến đổi chỉ số GDP đầu người (US$) của Singapore (1), Nam Hàn (2), Malaysia (3), Thái Lan (4), Indonesia (5), Philippines (6) và Việt Nam (7) qua thời gian 31 năm kể từ 1980 đến 2011.
Trong vòng 31 năm qua, Singapore vẫn giữ hàng đầu. Tuy nhiên, Nam Hàn nhảy hạng từ thứ 3 của năm 1980 lên hạng 2 vào năm 1985, và Malaysia tuột hạng từ 2 xuống 3. Philippines từ hạng 4 xuống hạng 6 trong lúc Thái Lan nhảy từ hạng 5 lên hạng 4 từ 1987, và Indonesia nhảy lên hạng 5 từ 2005. Việt Nam vẫn tiếp tục giữ hạng chót trong số 7 quốc gia nói trên.
Tuy nhiên, việc phân tích chi tiết con số sẽ chỉ ra một thực trạng bi đát hơn nhiều, khi so sánh tỷ trọng tương đối về khoảng cách GDP/người giữa các nước với Việt Nam trong chu kỳ 31 năm nói trên:
Năm 1980, GDP/người của Singapore gấp Việt Nam 9,25 lần, của Hàn Quốc gấp 3,29 lần; của Malaysia gấp 3,44 lần, Philippines gấp 1,45 lần; Indonesia gấp 1,14 lần; Thailand gấp 1,35 lần.
Năm 2011, sau 31 năm, khoảng cách GDP/người của các nước với Việt Nam đều giãn cách rất rộng: Singapore gấp Việt Nam 35,86 lần; Hàn Quốc gấp 16,32 lần; Malaysia gấp 7,34 lần; Philippines gấp 1,71 lần; Indonesia gấp 2,56 lần; Thailand gấp 3,93 lần.
Như vậy, khoảng cách giữa Việt Nam và các nước kề sát không những không được thu hẹp sau 31 năm mà ngược lại, ngày càng giãn rộng. Điều nguy hiểm hơn, nếu so sánh với Trung Quốc, quốc gia đang xâm lược Việt Nam, thì khoảng cách chênh lệch ấy lại càng đáng báo động. Năm 1980 GDP/người của Trung Quốc chỉ hơn Việt Nam 1,37 lần. Tuy nhiên, năm 2014, tỷ lệ ấy đã lên tới con số 3,69 lần. Khoảng cách chênh lệch so sánh giữa Việt Nam và mối đe dọa lớn nhất của nó không những không được thu hẹp sau 34 năm, trái lại, lại mở rộng ra tới 2,7 lần.
Nếu chúng ta hiểu việc chế độ Việt Nam tìm mọi cách duy trì hòa bình với Trung Quốc, là để âm thầm xây đắp đất nước, mục tiêu cao nhất là để thay đổi tương quan lực lượng so sánh song phương, để từ đó Việt nam có thể trụ vững, thậm chí có thế mạnh được cải thiện dần để đàm phán đòi lại lãnh thổ thì rõ ràng mục tiêu này đã hoàn toàn thất bại. Nền hòa bình giả dối mà Trung Quốc ban tặng cho Việt Nam dưới chiêu bài đại cục, chỉ đem lại lợi ích duy nhất cho chế độ cai trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam, khi nó tiếp tục duy trì được quyền cai trị dài hơn hơn, trong bối cảnh khoảng cách giữa Việt Nam và tất cả các nước xung quanh thì ngày một giãn rộng.
Liệu Việt nam có thể bắt kịp các nước lân cận và Trung Quốc một cách tương đối hay không? Nhìn vào biểu đồ số 1 bên trên, có thể thấy Việt Nam sẽ không bao giờ bắt kịp Philippin, Thái Lan, Indonesia chứ chưa nói gì tới Malaysia, Hàn Quốc hay Singapore. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này, anh tham khảo số liệu của IMF trong 10 năm, từ 2002 - 2011 để vẽ lại mức tăng trưởng GDP/người cho mỗi quốc gia:
Biểu đồ 2. Đường biểu diễn biến đổi chỉ số GDP đầu người (US$) của Singapore (1), Nam Hàn (2), Malaysia (3), Thái Lan (4), Indonesia (5), Philippines (6) và Việt Nam (7) qua thời gian 10 năm từ 2002 đến 2011. Đường biểu diễn do chương trình toán học thống kê cho kết quả phù hợp với các số dữ kiện với độ chính xác rất cao (R2 từ 0.944 cho Malaysia và 0.988 cho Việt Nam).
Và cuối cùng, dựa vào chương trình mô hình toán để vẽ ra bản đồ dự báo tăng trưởng GDP/người của 7 quốc gia trên trong 50 năm tới:
Biểu đồ 3. Đường biểu diễn tiên đoán GDP đầu người trong thời gian 50 năm tới (trục tâm 0 là năm 2013) cho Singapore (1), Nam Hàn (2), Malaysia (3), Thái Lan (4), Indonesia (5), Philippines (6) và Việt Nam (7). Tiên đoán dựa theo vận tốc tăng trưởng của thời gian 2002-2011 của biểu đồ 2.
Kết luận rút ra, là Việt nam không thể bắt kịp bất cứ một quốc gia lân cận nào trong khu vực với những gì mà chế độ cai trị hiện hành tại Việt nam đang thực hiện. Bên cạnh đó, thể chế của tất cả các nước trên đều tiến bộ hơn Việt Nam, sức đổi mới của họ do đó cũng lớn hơn, và với những gì đang có, sức mạnh so sánh giữa Việt Nam với các nước nêu trên sẽ ngày càng giảm.
Anh Lãng không đưa Trung Quốc vào dự báo, vì bản thân quốc gia này có rất nhiều yếu tố chưa xác định trong tương lai. Tuy nhiên, rõ ràng là khoảng cách giữa Việt nam với Trung Quốc cũng sẽ ngày một cách rộng, nếu sẽ vẫn là những gì chế độ cai trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam đang làm.
Có thể kết luận rằng trong 25 năm qua, nếu hiểu là chế độ Việt Nam câu giờ với Trung Quốc để tìm kiếm hòa bình, để phát triển nhằm thay đổi tương quan lực lượng với phía xâm lược, thì họ đã hoàn toàn thất bại. Cá nhân anh thì cho rằng, mục tiêu chính của họ, hoặc ít nhất là của một phần lớn thành phần trong chế độ, chỉ nhằm duy trì quyền cai trị càng lâu càng tốt, càng dài càng tốt. Có lẽ đó mới chính là bản chất vấn đề.
Tiếp tục đi trên con đường này, sức mạnh so sánh giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày một chênh lệch, chúng ta sẽ dựa vào cái gì để bảo vệ những gì còn lại, chứ chưa nói đến việc lấy lại những thứ đã mất?
Đây chính là thứ mà Tập Cận Bình muốn tiếp tục duy trì ở Việt nam khi mang ngọn cờ “Đại cục” sang vào ngày 05/11/2015. Rõ ràng, phía trước Việt Nam chỉ có vực thẳm.
Đến đây tự các bạn có thể trả lời câu hỏi: Tương lai nào cho Việt Nam với thể chế chính trị hiện nay?
Vậy đâu là giải pháp?
Tính từ ngày 03/09/1990 khi lãnh đạo Trung Quốc thành công mang miếng mồi “Đại cục” ra dụ các lãnh đạo Việt Nam, người Việt đã có 25 năm lầm lụi lao động đóng thuế để góp tiền nuôi chế độ và xây đắp đất nước.
Cũng trong thời kỳ này, Việt Nam đã nhận được những gì để phát triển? Có lẽ anh sẽ bỏ qua số liệu về nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI, là thứ mà tất cả các nước trong khu vực đều lấy làm trọng tâm thu hút. Nó mang tính thị trường và phụ thuộc vào đặc điểm mỗi nước để thu hút được nhiều hay ít. Nhưng những nguồn lực mang tính viện trợ mà Việt Nam nhận được, nó ở mức nào?
Theo số liệu thống kê, trong vòng 20 năm qua, tính đến tháng 08/2015, Việt Nam nhận được tổng cộng 80 tỷ USD vốn vay viện trợ ODA, trong đó riêng Nhật Bản chiếm 1/4, đạt tới 20 tỷ USD. Đây là con số rất lớn nếu tính trên GDP hiện hữu của Việt Nam. Dù chia đều cho 20 năm thì nó cũng là những nguồn lực có thể tạo cú hích đột phá cho tăng trưởng. Nhưng kết quả mà Việt nam đã có là cái gì? Thực trạng ở phần phân tích kinh tế bên trên đã chỉ rất rõ.
Một nguồn lực còn lớn hơn nhiều, và có thể gây sửng sốt cho những người không có chuyên môn, chính là thống kê về số tiền kiều hối mà người Việt chuyển từ nước ngoài về trong những năm qua. Tính từ năm 1991 đến cuối năm 2014, tổng số tiền kiều hối chuyển về Việt Nam thậm chí vượt quá số tiền tài trợ ODA những năm qua, và đạt tới con số xấp xỉ 90 tỷ USD. Đây là một nguồn lực khổng lồ, chảy vào Việt nam vô điều kiện, không ràng buộc, không lãi suất.
Những nguồn lực trên đáng lý ra phải tạo ra tốc độ tăng trưởng trên hai con số cho Việt Nam, vì nó quá lớn nếu so sánh với GDP các năm. Tuy nhiên, với sức ì của chế độ cai trị của Đảng Cộng Sản, với cái chiêu bài “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, các cải cách về thể chế và pháp lý đều diễn ra chậm chạp và nửa vời. Đến tận năm 2015, khối kinh ế quốc doanh vẫn chiếm một tỷ trọng cực lớn về số vốn và số tài sản xã hội, và đóng góp thấp nhất cho tăng trưởng kinh tế. Cũng chính nhóm này, tập trung nhiều nhất các đại án tham nhũng, mà chỉ riêng vụ Vinashin đã khiến thất thoát tới 4 tỷ USD (chiếm 5% GDP của Việt Nam ở thời điểm phát sinh). Các nguồn lực khổng lồ đổ vào Việt nam, bị phung phí và tiêu biến trong một thể chế đầy sức cản và tham nhũng. Cuối cùng hiệu năng của chúng đối với nền kinh tế rất thấp, và Việt nam ngày một tụt hậu so với các nước xung quanh. Sự chi phối chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam càng khiến vấn đề ngày một trầm trọng.
Trong những bối cảnh rất khó khăn, thì chính TPP là lối thoát cho Việt Nam, nhưng đó chỉ là cơ hội, còn để biến cơ hội thành hiện thực, thể chế Việt Nam buộc phải thay đổi.
Trong thiên Lãng luận: “Lỗi hệ thống và sự lạm dụng quyền lực”
anh đã phân tích rõ về sự tha hóa của quyền lực độc tài, chính là căn nguyên cho mọi tệ nạn và mọi rào cản ở Việt nam. Tham nhũng do tha hóa quyền lực độc tài mà ngày một trầm trọng và không thể kiểm soát, bất công xã hội cũng theo đó mà ra và kèm theo đó là sự suy đồi. Cũng chính đó là thứ đang dẫn tới các rào cản cho nền kinh tế. Các doanh nghiệp làm việc với các cơ quan công quyền hiện nay đều không thể thiếu phong bì và tiền đút lót. Nạn nhũng nhiễu ngày một trầm trọng và diễn ra thậm chí cả ở những cấp cơ bản nhất, đáng ra phải đại diện cho trật tự xã hội và sự công chính của pháp luật mà tiêu biểu là lực lượng cảnh sát giao thông, những người tiếp xúc nhiều nhất với người dân hàng ngày. Toàn bộ đạo đức xã hội do đó gần như sụp đổ vì người dân còn rất ít niềm tin vào công lý, và các thành phần quan chức thì vơ vét được càng nhiều càng tốt. Sự thất thoát trong đầu tư công thì là một vấn nạn cực kỳ kinh khủng. Hầu hết các công trình xây dựng hạ tầng ở Việt Nam trong 20 năm qua, cầu cống, đường xá đều dính phải vấn nạn rút ruột, bớt xén và nâng giá. Ngân sách và đầu tư công ngày càng lớn qua mỗi năm, số tiền vay nợ và bội chi ngân sách cũng ngày càng tăng, nhưng hiệu suất đầu tư thì ngày càng giảm. Cơ hội tăng trưởng của Việt nam cũng tiêu biến dưới ma trận của nạn tham nhũng, nạn nhũng nhiễu của các cơ quan hành pháp.
Có quá nhiều thứ cần phải làm ở đất nước này để thay đổi vấn đề, có quá nhiều thứ cần đập đi và xây lại, có quá nhiều thứ cần xóa bỏ. Anh Lãng sẽ không đi chi tiết quá sâu vào các biện pháp mang tính kỹ trị cụ thể vì nó sẽ không thể được bàn hết trong phạm vi một vài chục bài phân tích. Nạn lạm dụng quyền lực trong nhiều năm ở một hệ thống lỗi đã làm băng hoại đến tận gốc rễ hệ thống chính quyền. Hiệu năng hoạt động của mọi cơ quan hành pháp đều méo mó và đóng vai trò lực cản thay vì thúc đẩy xã hội. Vì vậy ở đây anh chỉ nói tới giải pháp cốt lõi: Chỉ có xóa bỏ và kiểm soát nạn lạm dụng quyền lực, hay nói đúng hơn là quyền lực độc tài ở Việt nam, dân tộc này mới có lối thoát.
Chế độ độc tài quân sự Myanma từng là một ví dụ tiêu biểu cho sự độc tài và là điểm nhấn cho sự tăm tối ở khu vực Đông Nam Á. Lý Quang Diệu từng viết trong hồi ký của mình rằng đây là đất nước không có ngày mai và nói chuyện với các lãnh đạo Myanma hệt như nói chuyện với người chết, vì họ chẳng thèm nghe gì ai. Cũng chế độ này đã bỏ tù bà Aung San Suu Kyi trong nhiều thập kỷ, cộng thêm hàng nghìn tù nhân chính trị. Nhưng cũng chính Myanma đã có một cú lột xác ngoạn mục, khi tự thay đổi chính mình từ bên trong. Từ một thể chế độc tài, Myanma thả toàn bộ các tù nhân chính trị và chấp nhận một chế độ bầu cử tự do. Dù rằng hiến pháp do họ soạn ra vẫn giành một số ghế đáng kể trong nghị viện cho phe quân sự mà không cần bầu chọn (1/4 số ghế và phe quân đội nắm quyền phủ quyết mọi thay đổi hiến pháp), tuy nhiên, quốc gia này đã có một sự thay đổi ngoạn mục. Tự nhiên chế độ cai trị Myanma nhận thấy họ không còn nhu cầu bỏ tù đối lập và họ có lại sự ủng hộ của người dân. Hóa ra, nhu cầu bắt tù chính trị chỉ có khi một chế độ không còn chính nghĩa. Hai ngày nữa thôi, ngày 08/11/2015 sẽ là cuộc bầu cử tự do lịch sử ở Myanma sau 25 năm cai trị độc tài. Đó chính là ngọn đuốc soi đường cho chính người Việt nam và cho chính chế độ đang cai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các vị hãy mở to mắt để nhìn, đất nước ấy đã chuyển biến mà không hề có hỗn loạn. Nó đang có vô số hy vọng mới và nó sẽ còn tiến xa. Chính Myanma là một cái tát vào luận điệu của Đảng Cộng Sản, cho rằng việc chuyển sang đa nguyên và bầu cử tự do sẽ dẫn tới hỗn loạn hoặc mất kiểm soát.
Giải pháp do đó, chính là cái cách mà Myanma đã và đang thực hiện. Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng có thể học theo, họ có thể giành cho mình một tỷ lệ đáng kể thành viên trong quốc hội được chỉ định mà không cần bỏ phiếu, họ cũng có thể làm giống phe quân sự Myanma, giữ lấy quyền phủ quyết hiến pháp. Nhưng phần còn lại, có thể là 70%, phải thực sự là những đại diện dân cử qua tranh cử tự do. Đảng cũng có thể giữ cho mình vị trí chủ tịch nước như người đứng đầu quốc gia, nhưng các vị trí điều hành, đặc biệt là thủ tướng, phải là một vị trí được bầu chọn qua tranh cử tự do. Sự kiểm soát của Đảng Cộng Sản sẽ thông qua số đại biểu mà họ nắm trong quốc hội. Nó sẽ là một giai đoạn chuyển tiếp có thể kéo dài hàng chục năm cho đến khi toàn bộ quốc hội được dân bầu. Nhưng có lẽ, đó là cách duy nhất để có một lộ trình chuyển biến hòa bình khiến quyền lực độc tài được kiểm soát dần dần cho đến khi xóa bỏ.
Đi kèm với sự kiểm soát quyền lực độc tài, hiệu năng của bộ máy nhà nước cần được nâng cao. Tất cả các cơ quan Đảng các cấp từ trung ương tới địa phương đang chiếm một lượng biên chế và ngân sách khổng lồ cần phải được xóa bỏ trong một lộ trình 5 năm, bắt đầu từ cấp xã. Việc đó sẽ giúp tinh giản biên chế công chức và cũng là cơ sở để nâng lương cho những người trong bộ máy hành chính các cấp. Giảm được số nhân sự bên Đảng, lương công chức có thể tăng gấp đôi mà không phải tăng quỹ lương. Đó cũng sẽ là bước đầu tiên để kiểm soát nạn tham nhũng trong các cơ quan công quyền.
Việc điều chỉnh các chính sách, việc chớp lấy các cơ hội như TPP, sẽ là những câu chuyện thuận lý thành chương nếu những rào cản lớn nhất đã được loại bỏ.
Tựu trung lại, mỗi người Việt nam, ngay từ lúc này phải gây sức ép với chính thể hiện nay bằng mọi cách, bằng mọi nỗ lực, để không đạt gì cao xa giống như các mô hình tiến bộ tại châu Âu, mà chỉ cần theo đúng cái cách Myanma đang tiến hành với một lộ trình hướng tới một chính thể tự do. Ngược lại, chính Đảng Cộng Sản Việt Nam, các vị cũng cần nhìn nhận rõ, cách Myanma đang đi là lối thoát tốt đẹp nhất cho tất cả, vì lịch sử không thể chấp nhận lối cai trị độc tài mà các vị đã áp đặt lên đầu người Việt Nam 25 năm qua tính từ hội nghị Thành Đô tháng 09/1990. Tiếp tục, đất nước sẽ ngày một tụt hậu và phía trước là vực thẳm. Thay đổi, các vị vẫn có thể giữ được quyền lực của mình thêm một số năm, vẫn đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Việt nam, và vai trò đó, sẽ là tích cực thay vì một bộ mặt gây phẫn nộ như hiện nay. Không đổ máu, không sụp đổ, không hỗn loạn mà chỉ là một bước tiến dài vào tương lai của đất nước, của dân tộc và cũng là của chính các vị.
Anh chấm dứt thiên Lãng luận này ở đây, vì nó đã quá dài. Những vấn đề còn dang dở sẽ được bàn tiếp ở những bài phân tích khác.
(Bài viết này có sử dụng dữ liệu được công bố công khai của World bank, IMF, một số thống kê của một số nhà nghiên cứu độc lập như Bùi Kiến Thành, Tiến sỹ Trần Đăng Hồng và một số dữ liệu khác từ internet. Xin cảm ơn các tác giả)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét