Translate

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2015

Muôn đời Dân vẫn là " Gốc "

Độc lập, chủ quyền, Trường Sa, Hoàng Sa, Giàn khoan 981, biển Đông, kháng chiến, pháp quyền, lịch sử, sách giáo khoa
Giữ nước chính là giữ dân vậy. Muốn giữ dân, một chính quyền phải thực sự vì dân”.
.
 LTS:Nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám, Quốc khánh 2/9, Tuần Việt Nam gặp gỡ và phỏng vấn GS.TS.NGND Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Thẩm định tư liệu triển lãm “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam”.  
Độc lập, chủ quyền, Trường Sa, Hoàng Sa, Giàn khoan 981, biển Đông, kháng chiến, pháp quyền, lịch sử, sách giáo khoa
 GS.TS.NGND Nguyễn Quang Ngọc. Ảnh: Đoàn Bảo Châu
Cách kỷ niệm ý nghĩa nhất 
Xin bắt đầu bằng một câu hỏi ngược dòng lịch sử. Như nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra, đất nước ta mang một vận mệnh khắc nghiệt khi luôn phải gồng mình chống lại các thế lực ngoại xâm mạnh hơn nhiều lần để có thể tồn tại, độc lập. Vậy theo ông, đâu là yếu tố tiên quyết, xuyên suốt làm nên những chiến thắng của dân tộc?
Có thể tóm lại trong một từ “DÂN”. Dân tin, dân theo thì thành công; dân không tin, dân không theo thì thất bại. Bài học của tất cả các cuộc chống ngoại xâm thất bại trong lịch sử Việt Nam là ở chỗ người tổ chức kháng chiến đã không huy động được sự đóng góp của dân.  
Hồ Quý Ly là một người anh hùng, tài ba, lỗi lạc, nhà cải cách lớn. Nguyễn Trãi từng nói về ông “Họa phúc hữu môi phi nhất nhật/ Anh hùng di hận kỷ thiên niên”. Song cũng chính Nguyễn Trãi đã chỉ ra cái yếu cốt tủy của nhà Hồ là “chính sự phiền hà, để trong nước lòng dân oán hận”. Khi đứng trước cuộc chiến tranh xâm lược đại quy mô của quân Minh mà quân đội nhà Hồ “trăm vạn người trăm vạn lòng” thì dù có trăm tay nghìn mắt, dù có tả xung hữu đột trên các phòng tuyến kiên cố, Hồ Quý Ly cũng không còn cách có thể nào ngăn cản nổi các cuộc tấn công ào ạt của quân Minh. Thất bại của cuộc kháng chiến của nhà Hồ là điều không tránh khỏi.  
Mọi chiến thắng huy hoàng của Việt Nam trước giặc ngoại xâm hung ác đều là cuộc chiến tranh nhân dân. Chiến tranh nhân dân là tinh hoa của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Vì sao? Vì các cuộc chiến tranh của chúng ta tổ chức đều là chiến tranh vệ quốc, mà kẻ thù xâm lược nước ta thường đều là các đại đế chế hùng mạnh nhất thế giới đương thời, chúng ta luôn phải “lấy yếu thắng mạnh”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn/ lấy chí nhân thay cường bạo”, trong điều kiện như thế, người lãnh đạo kháng chiến không thể không đặt cược thành công ở sự đóng góp của toàn dân.  
Giữ nước chính là giữ dân vậy. Muốn giữ dân, một chính quyền phải thực sự vì dân. 
Là người nghiên cứu sử, lại từng sống qua các cuộc chiến tranh của dân tộc, ông cảm nhận ra sao về những bước đi suốt 70 năm qua của đất nước?
Đây là dịp để nhìn nhận lại chặng đường 70 năm, những gì làm được, những gì chưa làm xong, để có thể tính tiếp con đường phát triển trong tương lai. Theo tôi, đó là cách kỷ niệm ý nghĩa nhất. 
Có thể nói Cách mạng tháng Tám là một bước thay đổi hoàn toàn, từ chế độ phong kiến thực dân chuyển sang chế độ dân chủ nhân dân. Sau Cách mạng tháng Tám, chỉ một thời gian rất ngắn, trong hoàn cảnh tròng trành giữa bão tố, chúng ta đã tập trung để xây dựng một nhà nước mới, thể chế mới trở thành nền tảng ban đầu cho toàn bộ quá trình phát triển cho đến ngày nay.   
Tiếp đến là thời kỳ 9 năm kháng chiến chống Pháp, 20 năm kháng chiến chống Mỹ… đều là những trang sử rất hào hùng.
Rồi thời kỳ phe XHCN đi vào khủng hoảng, tan rã, chúng ta ở vào một hoàn cảnh còn khó hơn các nước, vì vừa từ chiến tranh đi ra. Trong điều kiện thiếu thốn những cái sơ đẳng, đói đến “vàng mắt”, chúng ta đã tiến hành Đổi mới, và cuộc sống hồi sinh nhanh chóng. Với nông nghiệp, chỉ mấy năm sau chúng ta đủ ăn, tiếp đến có dư để xuất khẩu, thậm chí xuất khẩu gạo đứng thứ nhất, thứ nhì thế giới. 
Nhìn cả lại cả một quá trình một cách tổng thể như vậy, rõ ràng chúng ta đã có những bước tiến mà trước đây chưa bao giờ nghĩ tới.  
                 Độc lập, chủ quyền, Trường Sa, Hoàng Sa, Giàn khoan 981, biển Đông, kháng chiến, pháp quyền, lịch sử, sách giáo khoa
Một Nhà nước đặt yêu cầu phát triển lên hàng đầu không thể không đề cao vai trò của pháp luật, thượng tôn pháp luật. Ảnh minh họa
Đạo đức lớn nhất là chấp hành nghiêm luật pháp
Những thành quả đó là không thể phủ nhận. Song, mặt khác, Việt Nam độc lập đã 70 năm, hòa bình đã 40 năm, cùng một quãng thời gian như vậy, thế giới đã có những bước tiến dài. Đổi mới tạo ra bước ngoặt kỳ diệu, nhưng sau đó dường như chúng ta lại bỏ lỡ không ít cơ hội để phát huy hết tiềm năng những thành quả. Theo ông đâu là nguyên nhân căn cốt?
Chúng ta thường ca ngợi Việt Nam là một xã hội rất hài hòa giữa lý và tình. Trong xã hội truyền thống, điều này hay thật, quý thật. Nhưng bước sang xã hội hiện đại, tôi e rằng đó chính là vật cản lớn nhất của chúng ta trên con đường phát triển. 
Một Nhà nước do dân, vì dân, đặt yêu cầu phát triển lên hàng đầu không thể không đề cao vai trò của pháp luật, thượng tôn pháp luật. Nghĩa là tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và đó mới là dân chủ, bình đẳng, chứ không thể vì tôi là con “ông to”, cái gì tôi cũng phải được ưu tiên.  
Chúng ta đề ra khẩu hiệu “sống và làm việc theo pháp luật” nhưng theo quan sát của tôi, không nhiều người thực hiện được, ai cũng muốn tìm ra sự hợp lý, ưu tiên cho mình, cho quyền lợi cá nhân, phe nhóm của mình.  
Thí dụ, chỉ từ chuyện nhỏ như tham gia giao thông, ai cũng muốn vượt, muốn chen ngang thì có nghĩa là chúng ta đang tự ngáng cản mình, đang tự kéo chúng ta lại. 
Cả hệ thống phải hiệu quả hóa từ khâu làm luật cho đến thi hành pháp luật, từ cấp cao nhất cho đến từng người dân thường, làm thế nào để mọi người thực sự nghiêm chỉnh chấp hành theo luật pháp và pháp luật của Nhà nước. 
Một xã hội “pháp trị” liệu có mâu thuẫn với một xã hội “đức trị”?
Tôi đi một số nước, quan sát chỉ vài hành động nhỏ cũng thấy sự chấp hành pháp luật ra sao. Chẳng hạn người hút thuốc lá mà không đúng vị trí quy định, lại vứt tàn thuốc bừa bãi thì sẽ bị phạt nặng. Nhưng cái phạt đó không đau bằng những người chứng kiến sẽ nhìn anh ta bằng con mắt khinh thường, xem anh ta như là cá thể lạc lõng trong thế giới văn minh. Nếu biết được điều ấy thì người hút thuốc lá sai quy định kia sẽ không bao giờ tái phạm nữa.
Tôi không bàn về các thuật ngữ “pháp trị” hay “đức trị” phương Đông và phương Tây đời xưa, mà chỉ muốn nói quan niệm thông thường hiện nay thôi. Ta vẫn gọi “đức” là đạo đức, là tư cách, phẩm chất con người; có trường hợp cụ thể dễ hình dung, nhưng phần nhiều là trừu tượng. Nhiều khi người ta đánh giá con người có đạo đức chỉ căn cứ vào thái độ ứng xử hài hòa, nói năng lễ phép, mà lại dễ dàng bỏ qua những tiêu chí rất cơ bản về phẩm chất, lối sống, hiệu quả công việc.  
Chúng ta vẫn nhìn nhận đạo đức theo lối tư duy của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, tính thời gian theo nhịp điệu mùa vụ, mà quên rằng trong xã hội hiện đại đòi hỏi tính chuẩn xác rất cao, nên chuẩn giờ phải trở thành một trong những tiêu chí hàng đầu của đạo đức con người.  
Vậy thì quan niệm đạo đức không phải là cái nhất thành bất biến mà cũng biến đổi trong không gian và thời gian. Tôi nghĩ, đạo đức lớn nhất ở những trường hợp tôi dẫn ra chính là chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp của nhà nước và quy định của xã hội. Trong xã hội hiện đại xem ra giữa “pháp trị” và “đức trị” càng xích lại gần nhau hơn và nhiều khi đã hòa đồng cùng nhau. 
Trước sau luôn tin ở lớp trẻ
Tôi được biết tháng 5 vừa rồi ông đã lần đầu tiên đặt chân đến Trường Sa, đánh dấu hơn 20 năm chính thức tham gia công cuộc sưu tập tư liệu chủ quyền đất nước. Đâu là điều ông tâm niệm suốt hành trình dài đó?
Tôi được phân công làm Chủ nhiệm đề tài Lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1994 và vì là nhà Sử học nên trước sau tôi chỉ chăm chú tìm kiếm các tư liệu lịch sử. Hơn 20 năm qua, tôi đã tranh thủ khảo sát hầu khắp các địa phương trong nước, nhiều trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm lưu trữ, thư viện của nhiều nước trên thế giới có các nguồn tư liệu liên quan đến chủ đề này.  
Tuy nhiên mãi đến tháng 5 vừa rồi tôi mới có cơ hội được đi ra Trường Sa. Thời gian chỉ có hơn chục ngày, chưa thể đi hết được các đảo, đá, bãi cạn, nhưng tôi đã thực học được nhiều hơn, biết được rõ ràng, cụ thể hơn so với tất cả những gì tôi đã tích lũy suốt hơn 20 năm nghiên cứu. 
Điều tôi luôn trăn trở là chúng ta có chủ quyền thật sự, trọn vẹn, trong hòa bình, hoàn toàn không có tranh chấp, tranh biện ít nhất từ đầu thế kỷ XVII cho đến đầu thế kỷ XX, nghĩa là chúng ta đã khai chiếm hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa theo đúng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ của luật pháp quốc tế, thế mà dân ta còn biết chưa nhiều. 
Trung Quốc mãi đến năm 1909, lợi dụng khi nước ta đang bị Pháp đô hộ, đã đưa người ra Hoàng Sa tuyên bố chủ quyền, rồi nhiều thập kỷ sau đó đã dựng lên cả một “Văn hiến các đảo Nam Hải”, ngang nhiên coi Biển Đông là lợi ích cốt lõi; khăng khăng tuyên bố cái gọi là Tây Sa, Nam Sa (Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam) là chủ quyền bất khả tranh cãi của họ. Chỗ nào họ cũng tuyên truyền, giáo dục, ở đâu họ cũng giới thiệu, giảng giải. Tôi hết sức ngạc nhiên là họ đào đâu ra lắm “hiện vật” minh chứng chủ quyền của họ đã được xác lập từ thời Hán (???) để trưng bày ở khắp các bảo tàng, các cuộc triển lãm trên toàn Trung Quốc.  Tôi cũng chưa hiểu vì sao sách giáo khoa lịch sử phổ thông của ta chưa thấy có mục nào viết về những trang sử bi hùng này ở Hoàng Sa, Trường Sa. Tôi đau xót thấy môn Sử đang bị đẩy vào ngõ cụt và có nguy cơ không còn tồn tại trong chương trình giáo dục phổ thông (vì chắc chắn sẽ không còn học sinh chọn học môn này) và không khỏi ngậm ngùi nghĩ đến máu xương của lớp lớp các thế hệ cha anh đã tan trong sóng biển.  
Đảng và Nhà nước ta luôn xác định nguồn lực con người là nguồn lực cơ bản cho phát triển bền vững đất nước, trong đó lịch sử Việt Nam là cơ sở rất quan trọng của nguồn lực con người Việt Nam. Mong các nhà chiến lược giáo dục quan tâm trả lại vị trí vốn có của ngành Sử trong hệ thống giáo dục phổ thông và đưa lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa vào chương trình sách giáo khoa Lịch sử. Được như vậy thì chắc chắn cả tiền nhân, hậu thế và cả người đời nay đều ghi nhận.  
Năm 2014, sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ảnh hưởng thế nào đến công tác sưu tập, công bố tư liệu chủ quyền cũng như một số vấn đề về quan điểm khác?
Tôi cho rằng đó là một sự kiện mang tính chất thúc đẩy rất quan trọng để chúng ta nhìn nhận, phát biểu vấn đề chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa một cách bài bản, đầy đủ, rõ ràng và chuẩn xác.  
Tôi cũng rất ủng hộ cách làm của Bộ Thông tin Truyền thông, trên cơ sở tư liệu đã chuẩn bị, tổ chức các triển lãm giới thiệu bài bản tư liệu, cơ sở lịch sử và pháp lý của chủ quyền VN tại gần 40 điểm ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, nhiều tỉnh, thành phố và các huyện đảo như Cô Tô (Quảng Ninh), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Trường Sa (Khánh Hòa), Phú Quý (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa Vũng Tàu) và Phú Quốc (Kiên Giang). Điều này đã nâng cao căn bản nhận thức về chủ quyền cũng như trách nhiệm của người VN đối với nghĩa vụ bảo vệ toàn vẹn từng tấc đất của Tổ quốc. 
Rồi cả những câu chuyện về quan điểm chính trị, như có người chưa rõ chức năng đại diện cho Việt Nam của Chính phủ Quốc gia VN (chính phủ của Bảo Đại) trong Hội nghị San Francisco (năm 1951), hoặc có người muốn có sự đánh giá về sự hy sinh của những người lính VNCH trong trận chiến Hoàng Sa 1974. Theo tôi, lúc nào chúng ta cũng phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên cao nhất. Chính phủ Quốc gia Việt Nam khi ấy đứng về mặt chính trị giữa các đảng phái trong nước thì đối lập với chính phủ Việt Minh, nhưng lại được thừa nhận trên trường quốc tế, và khi họ đi dự hội nghị Quốc tế San Francisco là đại diện cho Việt Nam. Và tất cả hành động hi sinh vì sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, đất nước đều thiêng liêng, đều phải được trân trọng. Tổ quốc đời đời ghi công tất cả các trường hợp chiến đấu, hy sinh vì sự toàn vẹn của quốc gia lãnh thổ, không phân biệt thời kỳ nào hay thuộc thể chế chính trị nào.  
Nhiều người cho rằng giới trẻ ngày nay sinh ra khi đất nước đã hòa bình nên tình yêu, cảm nhận của họ đối với đất nước, chủ quyền sẽ nhạt nhòa hơn so với những thế hệ đi trước. Là một người thầy, tiếp xúc nhiều với giới trẻ, ông có bi quan như vậy?
Hoàn cảnh mỗi thời mỗi khác. Chúng tôi trưởng thành trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ, khi đó yêu cầu tìm hiểu lịch sử về công cuộc chống ngoại xâm, chủ quyền quốc gia lãnh thổ luôn luôn thôi thúc mỗi người, mà nếu như bàng quan đứng ngoài thì cũng giống như kẻ có tội vậy.  
Hiện nay, chẳng hạn, khi cần tìm hiểu chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa, các em có thể tìm ở bất cứ nơi đâu, chỉ gõ máy tính là có thể có hàng nghìn trang (nếu như trước đây chúng tôi phải đến thư viện, tìm khắp nơi, thậm chí mất hàng tháng trời chưa chắc đã được vài trang). Như vậy, khó có thể so sánh rằng vì thế hệ trước dành nhiều thời gian hơn thì yêu Hoàng Sa, Trường Sa hơn, còn thế hệ hiện nay sử dụng ít thời gian hơn thì yêu Hoàng Sa, Trường Sa không bằng. Chúng ta phải căn cứ vào hiệu quả công việc, đánh giá thực tế hành động thể hiện nhận thức vấn đề chủ quyền…  
Tôi có cảm giác có một thời ta ít tuyên truyền, giới thiệu thì cũng có nhiều người không mấy quan tâm, nhưng sau sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trên thềm lục địa và khu đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cả xã hội quan tâm sôi sục, trong đó đặc biệt là lớp trẻ. Họ có sự hiểu biết sâu sắc không chỉ lịch sử chủ quyền của Việt Nam, mà cả luật pháp quốc tế. Họ đã sáng tạo ra nhiều hình thức đấu tranh linh hoạt, độc đáo, hiệu quả, thể hiện tầm cao trí tuệ và bản lĩnh tuyệt vời của tuổi trẻ Việt Nam. 
Tôi trước sau vẫn rất tin ở lớp trẻ. Qua những sự kiện có tính chất kiểm nghiệm, chúng ta càng thấy rõ hơn ý thức sâu sắc về chủ quyền quốc gia lãnh thổ và nhất là tài thông minh, trí sáng tạo được thể hiện ở các hình thức đấu tranh phong phú và hiệu quả, mà tuổi trẻ chúng tôi trước đây chắc chắn chưa làm được như vậy.          
———–

Không có nhận xét nào: