Học sinh Trường THPT An Thớí cùng đứng nghiêm trang tưởng niệm các chiến sĩ hi sinh trong cuộc chiến tranh chống quân Trung Quốc xâm lược ở biên giới phía Bắc năm 1979. |
Nhưng nhìn rộng ra lại thấy đau. Vì sao một sự kiện lớn, đau thương như vậy mà người Việt không dám nhìn thẳng vào sự thật??? Vì sao trở nên đớn hèn đến vậy ???
Trong một chuyến du ký ở
Việt Nam để tìm hiểu về dư âm của cuộc chiến 1979, nhà báo Michael Sullivan có
tìm đến một nghĩa trang ở Lạng Sơn. Khi chứng kiến một phụ nữ thắp nhang cho
người thân của mình, một binh sĩ đã hy sinh để chống lại quân xâm lược Trung
Quốc, Micheal Sullivan đã an ủi bà rằng thôi thì chiến tranh đã chấm dứt. Nhưng
rất dứt khoát, bà Phạm Thị Kỳ – tên của người phụ nữ – đã nói rằng “Không, sẽ
không bao giờ chấm dứt. Với Trung Quốc, làm sao mà chấm dứt được?”.
Khu nghĩa trang nhỏ nơi bà
Phạm Thị Kỳ đang viếng người thân, sẽ không bao giờ nói lên đủ nỗi đau của một
cuộc chiến ngắn ngủi nhưng khốc liệt đó. Theo ước tính chủ quan của các sử gia
nước ngoài, ước tính có 50.000 người Việt đã thiệt mạng, bao gồm binh sĩ cùng
người già và trẻ con bị quân Trung Quốc tàn sát man rợ trên đường rút chạy, để
trả thù cho cuộc xâm lăng thất bại, với gần 100.000 lính bị thương và chết.
Ở Việt Nam ngày nay, người
ta không dễ tìm thấy một cách trọn vẹn những dữ liệu mang tính chính thống cho
cuộc chiến kỳ quặc và đau thương này. Hiếm có bộ phim nào ra rạp với kịch bản
về cuộc chiến biên giới phía Bắc – dù đó là nguồn đề tài sử thi dồi dào. Rất ít
sách nghiên cứu về hậu quả của cuộc chiến này, đối với đất nước và con người
Việt Nam. Thậm chí, không có dòng nào trong sách giáo khoa lịch sử – so với
hàng núi sách về cuộc chiến với người Pháp, người Mỹ và miền Nam Cộng hòa được
phổ biến rộng rãi – mà những đứa trẻ như con cháu bà Phạm Thị Kỳ vốn vẫn thắc
mắc khi đến viếng mộ người thân của chúng.
Đã đến lúc Bộ giáo dục Việt
Nam đưa câu chuyện chiến tranh này vào sách giáo khoa chưa? Chí ít đó là một
chương rất nhỏ và mờ nhạt về cuộc chiến này, để không làm đau tủi hàng chục
ngàn người Việt đã ngã xuống, đổ máu trong các cuộc đụng độ biên giới, để chúng
ta có thể ngồi yên ở đây, hôm nay?
Không khác mấy ở Việt Nam.
Cuộc chiến biên giới 1979 Việt – Trung cũng được nhắc đến rất mờ nhạt ở Trung
Quốc. Ngay trong sách giáo khoa của học sinh trung học đại lục, chỉ có vài dòng
ít ỏi mô tả để thế hệ sau không lãng quên quá khứ nhưng lại không quên ghi rằng
đó là một cuộc chiến tự vệ và đánh trả để chứng minh “sức mạnh và chính nghĩa”
của Trung Quốc. Giải thích về chuyện vì sao quân đội Việt Nam không hề tiến qua
biên giới, mà chính quân đội chính quy Trung Quốc lại thọc sâu vào đất Việt
Nam, các sử gia nhà nước đã ghi rằng bởi PLA (Quân đội Giải phóng Nhân dân
Trung Hoa) chấp nhận đáp trả thách thức của nước Nga, lúc đó đang hậu thuẫn cho
Việt Nam, khi đưa ra lời cảnh cáo nếu vượt biên giới thì Nga sẽ pháo kích đánh
trả.
Dù ít, nhưng người Trung
Quốc cũng được dạy rằng họ mang “chính nghĩa” đi khắp thế giới, và Hoàng Sa và
Trường Sa là của đất mẹ đại lục hiện vẫn chưa thu hồi được. Cuộc chiến 1979
được Trung Quốc mô tả với hơn một tỷ dân của họ rằng Việt Nam “kiêu ngạo và càn
quấy” nên cần được dạy dỗ. Ký ức về cuộc “dạy dỗ” đầy man rợ đó vẫn lưu truyền
trong dân chúng, và những nấm mồ người dân Việt vô tội im lặng nằm rải rác, dọc
khắp biên giới Bắc là bằng chứng không thể chối cãi.
Vì sao chúng ta cần những
sự thật lịch sử? Vì sao phải cần ghi vào sách giáo khoa cho con cháu về sau?
Câu hỏi nghe chừng có vẻ ngớ ngẩn – nhưng không phải là không cần đặt ra lúc
này. Vì bởi lịch sử làm nên nhân cách và dân tộc tính của mỗi quốc gia. Lịch sử
tạo nên những con người có ý thức rằng dân tộc mình đã tồn tại với thất bại và
vinh quang như thế nào. Lịch sử dặn dò rằng con người nhỏ nhoi nhất có thể trở
nên vĩ đại nhất, nếu vượt qua và sống sót. Tựa lưng vào lịch sử đầy đủ và trung
thực, con người có thể tìm thấy cho mình cái nhìn sâu sắc, giá trị giúp cho
từng thế hệ đi tới.
Lịch sử không để dùng nuôi
giữ hận thù hay phục vụ cho mục đích nào đó, ngoài việc dâng tặng cho tri thức
tử tế và sinh tồn. Lịch sử là kho kinh nghiệm vô giá để loài người soi lại
chính mình. Cố tình lãng quên sự thật và lịch sử mới chính là cách dùng súng
bắn vào quá khứ một cách đê tiện.
Ở Trung Quốc lúc này, việc
đòi hỏi minh bạch cuộc chiến 1979, đưa vào sách vở chính thống cũng đang rộ lên
trên các diễn đàn tiếng Hoa. Trên tờ New York Times, khi ký giả Howard. W.
French hỏi vài cựu chiến binh Trung Quốc đã tham gia cuộc chiến 1979 rằng họ có
biết ý nghĩa của cuộc chiến đó là gì không, họ đã lắc đầu nói “tôi không biết”.
Long Chaogang, tên của người cựu binh này, nói rằng khi con cháu hỏi về cuộc
chiến này, và vì sao, ông chỉ còn biết gạt phắt đi và nói “không phải việc của
tụi mày”.
Xu Ke, tác giả một cuốn
sách tự phát hành mang tên The Last War, từng là một cựu pháo binh 1979, thì có
những lý giải khác. Ông nói với ký giả Howard rằng cuộc chiến đó là phần ký ức
buộc phải xóa đi trong trí nhớ của người Trung Quốc, bởi lý do của cuộc chiến
đó không rõ ràng. Thậm chí, còn có lý thuyết rằng Đặng Tiểu Bình dấy lên vụ
xung đột biên giới để rảnh tay sắp xếp lại quyền lực của mình trong bộ chính trị,
vốn đang bị ám ảnh khuôn mẫu từ triều đại của Mao và đầy bất lợi với họ Đặng.
Trung Quốc làm ngơ và xóa
ký ức của người dân Trung Quốc về cuộc chiến 17 tháng 2/1979 bởi họ không có
chính nghĩa. Cả thế giới nhìn thấy đó là cuộc xâm lăng điên cuồng. Nhưng người
Việt thì không thể làm ngơ với lịch sử của mình, đặc biệt khi đó là phần lịch
sử bảo vệ tổ quốc, kiêu hãnh và lưu danh trong ký ức nhân loại. Lịch sử phải
được ghi lại, được giáo dục trong sách giáo khoa để ghi rõ những quân đoàn
Trung Quốc trên đường tháo chạy vẫn được tướng Hứa Thế Hữu (*) truyền lệnh “sát
cách vô luận” – tức thấy là giết, không cần lý lẽ. Đàn bà bị hãm hiếp rồi giết,
trẻ con bị đập chết, người già bị chôn sống… “chính nghĩa” của đạo quân phương
Bắc là vậy. Lịch sử phải được nhìn thấy đủ, để dấy động mọi tâm can, cho những
cuộc thắp hương tưởng niệm hàng năm phải được là lễ trọng, không bị ngăn trở và
vô vàn những bia, chữ tưởng niệm không bị vô-chủ tâm nhổ bỏ, hoặc làm ngơ với
phong sương.
17.2.1979 không phải là
cuộc chiến riêng của vài tỉnh miền Bắc Việt Nam, cuộc chiến đó là cuộc chiến
của lòng ái quốc và lòng tự trọng của một dân tộc trước thách thức để sinh tồn
và độc lập. 17.2 cũng cần được kính trọng không khác ngày 2.9 trên đất nước
này. Vậy thì, khi nào sách giáo khoa Việt Nam sẽ ghi vào đó phần máu thịt và
đau thương của người Việt đã bị làm ngơ?
Khi nào?
Kết thúc bài viết của mình
tại Trung Quốc, ký giả Howard hỏi ông Xu Ke rằng ông sẽ làm gì với cuốn sách
của mình. Người cựu chiến binh Trung Quốc đó im lặng chốc lát, và trả lời rằng
ông muốn nhân dân mình được biết, tường tận về những gì đã xảy ra. “Bọn đạo đức
giả và phản bội đã che giấu sự thật”, ông Xu Ke nói.
——————————
(*) Tháng 9/2008, Tướng Trung Quốc Hứa Thế Hữu từng được nhiều báo Việt Nam chia nhau đăng bài ca ngợi là tài năng xuất chúng, mà “quên” bẳng ông ta chính là người cầm cánh quân tiến công vào Cao Bằng – Lạng Sơn năm 1979, với chủ trương tàn phá mọi nhân lực và vật chất của Việt Nam.
(*) Tháng 9/2008, Tướng Trung Quốc Hứa Thế Hữu từng được nhiều báo Việt Nam chia nhau đăng bài ca ngợi là tài năng xuất chúng, mà “quên” bẳng ông ta chính là người cầm cánh quân tiến công vào Cao Bằng – Lạng Sơn năm 1979, với chủ trương tàn phá mọi nhân lực và vật chất của Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét