Translate

Thứ Năm, 22 tháng 5, 2025

TÌNH ĐỒNG CHÍ GÃY GÁNH NỬA ĐƯỜNG: HẬN THÙ NGÀN NĂM GIỮA BẮC KINH VÀ MOSCOW

 Chu Vĩnh Hải




Cùng mang danh Cộṉg sản. Cùng tôn thờ một ông tổ Karl Marx. Cùng lấy đấu tranh giai cấp làm kim chỉ nam. Thế nhưng giữa Bắc Kinh và Moscow, giữa Trung Hoa đỏ và Liên Xô cũ, lại tồn tại một mối hận không thể hàn gắn. Đó không chỉ là xung đột ý thức hệ, mà sâu xa hơn, là mối thâm thù truyền kiếp xuất phát từ lịch sử tranh đoạt lãnh thổ, từ lòng căm giận dân tộc Nga đã ăn sâu vào tâm thức Trung Hoa suốt hơn một thế kỷ.
Năm 1858, khi nhà Thanh còn chìm đắm trong giấc mộng thiên triều, Đế quốc Nga đã nhân cơ hội yếu hèn của phương Đông mà ngang nhiên xâm chiếm phần lớn vùng Đông Bắc Trung Hoa. Từ Hắc Long Giang đến sông Ô Tô Lý, tràn ra tận duyên hải Thái Bình Dương. Sau đó, đến năm 1920, Nga lại chiếm luôn đảo Sakhalin và toàn bộ vùng Tannu Uriankha, phía Đông hồ Baikal. Tổng cộng, hơn 4 triệu cây số vuông lãnh thổ đã bị cưỡng chiếm, một con số lớn gấp đôi so với nhận thức phổ biến trong công luận hiện nay.
Mối thù đó không bao giờ nguôi. Dù đã khoác áo đỏ, dù đã là đồng chí trên giấy tờ, lãnh đạo Trung Cộṉg vẫn không thể quên được món nợ lịch sử đó. Năm 1961, Mao Trạch Đông ra lệnh đánh một trận quyết tử nhằm đòi lại đất đai từ tay Liên Xô. Kết quả là quân Trung Hoa thảm bại, chịu nhục ê chề trước hỏa lực vượt trội của Nga Sô. Mao Trạch Đông từ đó nuốt hận trong lòng, ngày ăn không ngon, đêm ngủ chẳng yên. Trong ông luôn canh cánh một khát vọng rửa nhục.
Ngày 2 tháng 3 năm 1969, Mao ra tay. 500.00 quân được lệnh vượt biên giới tấn công đảo Damanski mà Trung Quốc gọi là Trân Bảo. Quân Liên Xô lập tức phản công với 200.000 lính tinh nhuệ. Trận chiến đẫm máu kéo dài suốt ba tháng, kết thúc bằng thất bại thê thảm của quân Mao. Đỉnh điểm của sự nhục nhã là khi Liên Xô đe dọa dùng bom nguyên tử dội xuống Bắc Kinh. Mao hốt hoảng, buộc phải tìm đến nước Mỹ từng bị ông mạt sát là “đế quốc xâm lược”, cầu viện Washington như một lối thoát sinh tồn.
Mỹ đón nhận tín hiệu ấy với thái độ thực dụng. Washington tuyên bố nếu Liên Xô dùng vũ khí hạt nhân, Mỹ sẽ đáp trả. Chính nhờ lời cam kết đó mà Bắc Kinh thoát khỏi cơn ṉguy biến. Và để trả ơn, Mao Trạch Đông quyết định chuyển hướng chính sách đối ngoại. Năm 1971, cố vấn an ninh Hoa Kỳ Henry Kissinger lặng lẽ tới Bắc Kinh mở đường bang giao. Một năm sau, Tổng thống Richard Nixon đến thăm Trung Quốc, ngồi cùng bàn ăn với Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông tại Hàng Châu. Cảnh tượng ấy đánh dấu sự hình thành một liên minh kỳ lạ giữa hai thế lực tưởng chừng không đội trời chung.
Trung Quốc và Mỹ từ đó bước vào một mối quan hệ “thề vườn đào” như trong Tây Du Ký, khi Tề Thiên Đại Thánh kết nghĩa cùng Ngưu Ma Vương để cùng nhau đối phó kẻ thù chung. Trong thế giới thực, kẻ thù chung ấy không ai khác ngoài Liên Xô, người anh em “Cộṉg sản” từng một thời là hình mẫu để học tập nhưng cũng là kẻ đã gieo hận sâu trong lòng phương Đông.
Câu chuyện này cho thấy, dù cùng chung hệ tư tưởng, mâu thuẫn dân tộc và tham vọng quyền lực luôn khiến các “đồng chí” dễ dàng quay lưng với nhau. Và cũng từ đây, chúng ta hiểu rằng trên bàn cờ chính trị thế giới, không có tình đồng chí vĩnh viễn, chỉ có quyền lợi là bất biến. 😁 Lam Huỳnh

Không có nhận xét nào: