Translate

Thứ Hai, 24 tháng 2, 2020

HỌC !

Đời người như thế kết thúc, cần chi phải màu mè. Đó gọi là giác ngộ.
Cứ đắm mãi trong cơn u mê, hết lăng lại mộ, lễ lạt tốn kém, bắt cả bộ máy lẫn dân chúng vào cuộc chỉ để chăm lo cho một người chết, quả thật chỉ có những kẻ cuồng tín mê muội mới làm như vậy

Nguyễn Thông:
Trong hình ảnh có thể có: 1 người, đang ngồi và trong nhà

Học
Những người cộng sản vô thần đã đến lúc cần noi gương các bậc chân tu bên Phật giáo về việc "xử lý" cái chết.
Theo quan niệm nhà Phật, có si
nh có diệt, sắc sắc không không, đến rồi đi, sống gửi thác về, chả có gì là muôn năm, bền vững, vĩnh viễn.
Hai vị đại lão Hòa thượng, cụ Thích Trí Quang (viên tịch hồi tháng 11.2019) và cụ Thích Quảng Độ (viên tịch ngày 22.2.2020), trước đó là cụ Thích Huyền Quang (viên tịch năm 2008) đều dặn dò phật tử đừng nên thờ cúng điếu phúng băng này hoa nọ, chỉ thật giản dị, khấn viếng trong lòng, cũng chẳng bày vẽ tang lễ rình rang, lại càng không chôn cất mộ này lăng kia, chỉ một nắm tro rải ra thủy hải giang hà là xong.
Đời người như thế kết thúc, cần chi phải màu mè. Đó gọi là giác ngộ.|

Cứ đắm mãi trong cơn u mê, hết lăng lại mộ, lễ lạt tốn kém, bắt cả bộ máy lẫn dân chúng vào cuộc chỉ để chăm lo cho một người chết, quả thật chỉ có những kẻ cuồng tín mê muội mới làm như vậy.
Chưa cần thay đổi điều gì xa xôi, cứ bỏ ngay những tang chế đẳng cấp đã bày vẽ, nhất là quốc tang, để giảm bớt gánh nặng cả vật chất và tinh thần cho dân. Có những cuộc quốc tang, nói thẳng ra chỉ để lại vết sẹo xấu xí trong lịch sử cộng đồng.

Nói hay như người cộng sản, nhưng làm thì hãy làm giản dị giống bậc chân tu.

-
PS:
Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người, mọi người đang đứng, hoa, thực vật và ngoài trời
Cố Thủ tướng Đức Helmut Kohl an nghỉ trong khuôn viên đất đai của gia đình ông

Cố Thủ tướng Đức Helmut Kohl được đa số người coi là một trong những kiến trúc sư chính của quá trình thống nhất nước Đức, và, cùng với Tổng thống Pháp François Mitterrand, Hiệp ước Maastricht, tạo lập nên Liên minh châu Âu. Hai ông Helmut Kohl và François Mitterrand cùng được nhận giải Karlspreis năm 1988. Năm 1998, Kohl được bầu làm Công dân Danh dự của Châu Âu. Tổng thống Hoa Kỳ George H. W. Bush miêu tả TT Kohl là "lãnh đạo vĩ đại nhất của châu Âu nửa sau thế kỷ XX". Ông mất 16 tháng 6 năm 2017 tại quê nhà, hưởng thọ 87 tuổi. Mặc dù được dân chúng Đức và EU rất ngưỡng mộ nhưng thể theo ý nguyện của vị hôn thê (từng gắn bó với ông những năm đau ốm cuối đời), nhà nước Đức không có quốc tang. Mộ phần ông được an trí ở nghĩa trang dân sự do gia đình tự bỏ tiền ra mua với giá như mọi cư dân khác ở quê hương ông...
-----------------

Thích Quảng Độ – những ngày tháng biến động
Mạnh Kim
.
Tại sao Hòa thượng Thích Quảng Độ bị ngược đãi và nằm trong tầm ngắm chính quyền suốt từ 1975 cho đến ngày ông mất? Đó là vì ông bất tuân hợp tác và kiên định không cúi đầu. Thái độ cứng rắn dứt khoát không khoan nhượng của ông là sự phản hồi trước sự đàn áp dữ dội của chính quyền đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (GHPGVNTN) sau 1975…
Ngay sau 30-4-1975, GHPGVNTN lập tức trở thành một trong những mục tiêu số một được nhắm đến. Chùa chiền bị chiếm. Sư sãi bị “đi cải tạo”. Các cơ sở tôn giáo bị tịch thu. Một trong những sự kiện chấn động đầu tiên như một phản ứng trước các chiến dịch đàn áp Phật giáo là vụ tự thiêu của 12 tu sĩ chùa Dược Sư ở Cần Thơ ngày 22-11-1975. Trong bản tuyên bố để lại, Đại đức Thích Tuệ Hiền viết: “Chúng tôi sắp sửa thể hiện sự thiêu thân để bảo toàn Chánh Pháp, để bảo vệ danh nghĩa của giới tu sĩ tại địa phương cũng như toàn quốc… Hành động của chúng tôi ngày hôm nay là cốt đem tấm nhục thân này làm bó đuốc soi sáng cho những người mê muội vô ý thức, những người với lòng lang dạ thú… Chúng tôi, Tăng Ni chùa Dược Sư, tha thiết kêu gọi quý vị hãy tôn trọng tự do tín ngưỡng của tất cả mọi tôn giáo…”.
Đã chẳng có sự “tự do tín ngưỡng” nào được tôn trọng. Thậm chí, tình hình sinh hoạt Phật giáo tại miền Nam ngày càng tệ hơn. Chưa đầy một năm sau sự kiện tự thiêu nói trên, ngày 22-7-1976, bằng Quyết định số 310/TTG với chữ ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng, chính quyền bắt đầu bắt buộc tu sĩ từ 18-25 tuổi phải “thực hiện nghĩa vụ quân sự”. Ngày 9-2-1977, Viện trưởng Viện Hóa đạo Thích Trí Thủ gửi Văn thư 0031/VHĐ/VP đến Phạm Văn Đồng. Hai tháng sau, chính quyền “trả lời” bằng việc mở một chiến dịch quy mô vây bắt hàng loạt chức sắc Phật giáo trong đó có Hòa thượng Thích Huyền Quang (Phó Viện trưởng Viện Hóa đạo), Thượng tọa Thích Thông Bửu (quyền Tổng vụ trưởng Tổng vụ cư sĩ), Hòa thượng Thích Quảng Độ (Phó Viện trưởng Viện Hóa đạo)…
Sự đàn áp Phật giáo được thực hiện dữ dội và khốc liệt, như thể GHPGVNTN nói riêng và Phật giáo nói chung là lực lượng đối lập “nguy hiểm” cần phải bị tiêu diệt. Không chỉ tống Hòa thượng Thích Thiện Minh ra khỏi chùa, chính quyền còn ra lệnh tất cả chùa chiền không được “chứa chấp” hòa thượng này. Cuối cùng, tháng 4-1978, thầy Thích Thiện Minh bị bắt và giam ở số 4 Phan Đăng Lưu. Sau đó, ông được đưa qua Chí Hòa và bị tra tấn đến chết. Như một cách phi tang chứng cứ, công an đưa xác thầy Thích Thiện Minh ra trại cải tạo Hàm Tân (Phan Thiết). Ba hôm sau, thầy Thích Trí Thủ được thông báo đi nhận xác. Thi thể thầy Thiện Minh vẫn còn đầy vết bầm sưng tím và có dấu hiệu của xiết cổ…
Ngày 9-12-1978, chính quyền tổ chức phiên tòa xét xử tội “chống đối nhà nước và âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng” đối với các tăng sĩ bị bắt một năm rưỡi trước đó. Thầy Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị kết án bốn năm (hai năm tù giam, hai năm tù treo). Tuy nhiên, trước áp lực quốc tế, hai vị được thả ngay sau phiên tòa. Ngày 11-10-1981, Hòa thượng Huyền Quang và Quảng Độ lại bị bắt. Việc tạm giam hai nhân vật có ảnh hưởng này là nhằm chuẩn bị cho cái gọi là Đại hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam tổ chức tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) ngày 4-11-1981. Gần một năm sau, cả hai vị được lệnh phải trở về nơi sinh quán. Thầy Huyền Quang bị áp giải ra Bình Định rồi đến Quảng Ngãi để “ổn định cư trú theo quy định”. Trong khi đó, thầy Thích Quảng Độ bị bắt đi cùng với mẹ già ra Thái Bình.
Sự đàn áp Phật giáo vẫn không dừng lại. Tháng 3-1984, hàng loạt học giả Phật giáo bị bắt: Thích Tuệ Sĩ, Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Thích Nguyên Giác, Thích Như Minh, Thích Nữ Huệ Khương, Thích Nữ Trí Hải. Với loạt biến cố kinh khủng đối với Phật giáo, cùng với sự truy bức tinh thần dữ dội, thầy Trí Thủ đổ bệnh. Thay vì để ông ở chùa Già Lam trước thỉnh nguyện của nhiều Phật tử, ông được “nhà nước chăm sóc” bằng cách đưa vào Bệnh viện Thống Nhất (Bệnh viện Vì Dân trước 1975). Tại đây, ông đã chết một cách bất thường. Chưa đầy một tháng sau, Hòa thượng Thích Thanh Trí, cánh tay mặt của thầy Trí Thủ, cũng chết một cách không bình thường tại một bệnh viện ở Huế…

Ngày 27-3-1992, sau hơn 10 năm bị trục xuất khỏi Thanh Minh Thiền Viện (Phú Nhuận, Sài Gòn) và sống như lưu đày ở Thái Bình, thầy Thích Quảng Độ tự ý bỏ vào Nam sau khi nhiều lần bị công an Thái Bình bác bỏ “đơn xin đi đường” của ông. Tháng 4-1992, công an TP.HCM ra công văn số 47/TL/PC13 yêu cầu thầy Quảng Độ rời Thanh Minh Thiền Viện và phải trở ra Thái Bình trước ngày 19-4-1992. Bất chấp, thầy Quảng Độ vẫn ở lại Sài Gòn. Tháng 10-1994, ông thậm chí công khai dựng bảng “Văn phòng Tổng thư ký Viện Hóa đạo Lưu vong” tại Thanh Minh Thiền Viện.
Tiếp đó, ông ra Thông cáo số 85/VPLU/VHĐ đề ngày 14-10-1994, tuyên bố chính thức tái hoạt động với cương vị Tổng thư ký Viện Hóa đạo GHPGVNTN, đồng thời kêu gọi Phật giáo toàn quốc “dựng lại bảng tên Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất tại các cơ sở, chùa chiền thuộc Giáo hội”. Kết quả, ngày 31-12-1994, công an tràn vào chùa Thanh Minh, lục soát, tịch thu tài liệu và dọa bắt thầy Quảng Độ nếu ông “tiếp tục ngoan cố”. Ngày 4-1-1995, lúc 3g15 chiều, công an vây kín chùa Thanh Minh, bắn bể ổ khóa cửa phòng riêng của thầy Quảng Độ và bắt ông đi. Lần này thì không ai có thể biết ông bị giam ở đâu… Bất bình trước vô số hành động trấn áp Phật giáo nói chung và trước sự kiện thầy Quảng Độ bị bắt, một nữ Phật tử người Đức tên Sabine Kratze, 25 tuổi, đang du học tại Việt Nam, từng quy y tại chùa Linh Mụ, đã tự thiêu. Sự kiện xảy ra lúc 7g15 tối ngày 3-9-1995, trong căn phòng F 2/2 ở lầu bốn, khách sạn Mini, số 179 Lý Tự Trọng, quận 1, Sài Gòn.
Trong bài Nhận định về những sai lầm tai hại của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc và Phật giáo Việt Nam, được “viết tại xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Tháng 1 năm 1992 (ngày 14 tháng 12 năm Tân Mùi). Kỷ niệm năm thứ 10 bị quản thúc lưu đày” – như được ghi ở cuối bài, thầy Thích Quảng Độ nói rằng ông “chẳng ân hận gì khi phải chết cho sự thật”. Ông viết:
“Nay đến lượt tôi cũng đã bị cộng sản Việt Nam giam cầm đày đọa suốt mười mấy năm rồi, chỉ vì cái ‘tội’ trung thành với lý tưởng đạo Phật, muốn bảo vệ nền văn hóa truyền thống của dân tộc, di sản tinh thần và kiến trúc vật chất của tổ tiên, thế thôi, chứ có tranh giành quyền lợi gì với ai đâu. Vì, theo tôi, văn hóa truyền thống và di sản tinh thần của tổ tiên rất là quan trọng, nhờ đó mà dân tộc Việt Nam đã không bị đồng hóa bởi các thế lực phong kiến, đế quốc và thực dân xưa cũng như nay, khi thống trị Việt Nam trước sau có tới hơn nghìn năm. Dĩ nhiên, vì đã lâu đời nên nền văn hóa cổ truyền của chúng ta cũng đã có những cái lỗi thời, ta nên bỏ đi, rồi học hỏi những cái hay cái đẹp của thế giới mà bồi bổ thêm cho mạnh thì được, chứ nếu chúng ta bảo nó đã lâu đời quá rồi, không còn thích hợp với đời mới nữa, thôi bỏ hết nó đi để thay vào đó một thứ văn hóa hoàn toàn mới, hoàn toàn xa lạ, thì chúng ta sẽ bị rơi vào tình huống:
Tây chẳng phải Tây, Đông chẳng Đông
Quỷ quái sinh ra lũ cuồng ngông
Mồ mả tổ tiên cày xới hết
Đình chùa miếu mạo phá bằng không
Ông bà xem nhẹ hơn con lợn
Bố mẹ coi như khúc gỗ thông
Phảng phất non sông hồn Lạc Việt
Bốn nghìn tuổi sử tủi hay không?!“

“Tủi hay không?”. Điều gì khiến không chỉ ông tủi mà dường như dân tộc này cũng đau lòng khôn dứt? Có phải đó là hiện trạng Phật giáo không chỉ biến tướng mà còn được thay bằng một thứ tôn giáo trá hình? Hay là cái thực tế “Ông bà xem nhẹ hơn con lợn/ Bố mẹ coi như khúc gỗ thông”? Hoặc phải chăng là một tình trạng đầy ngao ngán “Tây chẳng phải Tây, Đông chẳng Đông/Quỷ quái sinh ra lũ cuồng ngông”?…
Tủi hay không? Có ai còn biết tủi hổ nữa hay không?
-------
Thầy Thích Quảng Độ được nhắc đến nhiều như một nhân vật chính trị nhưng ít người để ý rằng ông cũng là một nhà nghiên cứu Phật học xuất sắc, như những người cùng thời với ông – thế hệ vàng của Phật học với những tên tuổi có thể vĩnh viễn nằm trên bảng vàng được xác chứng qua những tác phẩm họ để lại hậu thế. Thầy Thích Quảng Độ từng dịch, sáng tác và biên soạn nhiều tác phẩm trong đó phải kể:
"Kinh Mục Liên sám pháp", "Thoát vòng tục lụy", "Truyện cổ Phật giáo", "Ðại thừa Phật giáo tư tưởng luận", "Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận", "Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận", "Từ điển Phật học Hán Việt"… Trong số chức sắc Phật giáo khoác áo “tăng sĩ” ngày nay, dường như không ai đủ kiến thức Phật học để cho ra đời bộ tác phẩm đồ sộ tám tập với gần 10.000 trang "Phật Quang Đại từ điển" mà thầy Thích Quảng Độ từng biên soạn, ngay vào những năm tháng ông nằm trong lao tù.

Ảnh: Tang lễ thầy Thích Quảng Độ; có sự xuất hiện của thầy Thích Trí Siêu-Lê Mạnh Thát – một học giả thuộc hàng “Long Tượng” của giới nghiên cứu Phật học Việt Nam

(Link tải một số tác phẩm của thầy Thích Quảng Độ: https://www.rongmotamhon.net/danh-muc_author_doc-sach_Th%C3…)

Không có nhận xét nào: