Translate

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2025

CU BA VÌ ĐÂU NÊN NỖI.?

Phan Thế Hải 







Nay mở TV thấy Chủ tịch QH Cuba Esteban Lazo Hernández đang thăm VN. Trong cuộc hội đàm với Chủ tịch QH Trần Thanh Mẫn, ông nhấn mạnh: Cuba coi trọng sự tham gia của các doanh nghiệp VN vào quá trình cập nhật mô hình kinh tế. Hiện tại, VN là nhà đầu tư châu Á lớn nhất tại Cuba, với sự hiện diện ngày càng quan trọng và gia tăng tại Khu Phát triển Mariel. Việt Nam có 10 dự án đầu tư tại Cuba. Thi thoảng VN lại tặng Cuba mấy ngàn tấn gạo.
Thực ra thì so với Cuba, VN có xuất phát điểm thấp hơn, điều kiện tự nhiên khó hơn, lại phải nện nhau với những đế quốc hùng mạnh bậc nhất còn Cuba thì chỉ có việc chửi nhau với Mỹ.
Hơn nửa thế kỷ cầm quyền của mình, Fidel Castro đã đưa Cuba từ một quốc đảo thịnh vượng bậc Mỹ Latinh thành một xã hội có dịch vụ công miễn phí nhưng kinh tế trì trệ, lệ thuộc và nghèo đói. Di sản của Fidel thiên về ý thức hệ và biểu tượng chính trị, trong khi kinh tế Cuba phải trả giá rất nặng.
Hồi còn ngồi trên ghế nhà trường, đám học trò chúng tôi đã chứng kiến Fidel Castro là lãnh tụ duy nhất thời bấy giờ đã trực tiếp đến vùng giải phóng Quảng Trị (1973), giữa lúc chiến tranh chống Mỹ còn khốc liệt. Câu nói nổi tiếng của ông thường được nhắc lại: “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”. Điều này tạo nên hình ảnh một người bạn thủy chung, son sắt. Nhiều nữ sinh hồi đó đã thầm yêu trộm nhớ vị lãnh tụ đẹp trai, hào hoa này.
Thực ra thì Fidel không chỉ thủy chung son sắt với VN, ông còn thủy chung son sắt với lý tưởng cộng sản cào bằng để đẩy nền kinh tế Cuba đến chỗ kiệt quệ.
Nay người Việt còn biết đến Marco Rubio (1971) đương kim ngoại trưởng Mỹ. Ông được sinh ra tại Mỹ trong một gia đình Cuba nhập cư. Thực ra thì cộng đồng người Cuba ở Mỹ khá đông đảo, khoảng hơn 2 triệu người và được coi là một dân tộc thành đạt. Nhờ đó, mỗi năm cộng đồng này chuyển về nước lượng kiều hối khá lớn. Ước tính rằng Cuba nhận khoảng 2–3 tỷ USD kiều hối/năm, cả hình thức tiền mặt và hàng hóa.
Dân số Cuba trong nước hiện chưa tới 10 triệu người (1/10 so với VN) so với Cuba kiều ở Mỹ vậy là khá lớn. Điều này có nguyên do của nó. Sau khi Fidel Castro lên nắm quyền (1959), Cuba tiến hành cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa doanh nghiệp, ngân hàng, công nghiệp, kể cả tiểu thương dịch vụ.
Điều này khiến tầng lớp trung lưu và thượng lưu mất tài sản, địa vị xã hội. Thêm vào đó là họ bị kỳ thị khiến làn sóng vượt biên lớn sang Mỹ, đặc biệt là Miami, bang Florida để mưu sinh.
Cuộc di cư rời quê hương bản quán để đến vùng đất mới cũng là cách “bỏ phiếu bằng chân”. Năm 1980 – Vụ khủng hoảng Mariel, điểm xuất phát cho những người di cư, hơn 125.000 người vượt biển rời Cuba chỉ trong vài tháng, phần lớn là thanh niên thành thị, nhiều người thuộc tầng lớp trung lưu và lao động có tay nghề. Trong những năm 1990s – “Thời kỳ đặc biệt”: sau khi Liên Xô sụp đổ, khủng hoảng kinh tế làm bùng phát thêm di cư, nhiều người vượt biển bằng bè, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng.
Hậu quả là Cuba mất đi một bộ phận lớn tầng lớp trung lưu, trí thức, chuyên gia, những người có khả năng lao động sáng tạo, cho ra nhiều của cải cho xã hội. Ở Mỹ, đặc biệt Miami, cộng đồng Cuba di cư hình thành, có ảnh hưởng chính trị mạnh, thường chống chính quyền Havana.
Trong nước, Cuba duy trì cơ cấu xã hội thiên về bình quân, nhưng thiếu lực lượng doanh nhân và chuyên gia để phát triển kinh tế. Phần lớn tầng lớp trung lưu và thượng lưu Cuba đã rời bỏ đất nước sau 1959, chủ yếu sang Mỹ. Đến nay, kiều dân Cuba ở Mỹ đóng vai trò vừa là nguồn kiều hối quan trọng cho Cuba, vừa là lực lượng chính trị đối lập ở hải ngoại.
Khi đánh giá về Fidel Castro và việc điều hành kinh tế Cuba, các học giả thường chỉ ra nhiều sai lầm và hạn chế trong quá trình cầm quyền (1959–2008). Có thể tóm lược như sau:
Thứ nhất, là quốc hữu hóa cực đoan và xóa bỏ khu vực tư nhân quá nhanh.Sau Cách mạng 1959, Fidel quốc hữu hóa toàn bộ đất đai, công nghiệp, thương mại, dịch vụ (kể cả tiệm bán lẻ nhỏ). Mô hình quản lý tập trung cao độ khiến nền kinh tế thiếu động lực cạnh tranh, hiệu suất thấp, phụ thuộc vào bao cấp của Nhà nước.
Thứ hai là sai lầm trong chính sách nông nghiệp. Cuba thí nghiệm mô hình “nông trang quốc doanh” quy mô lớn theo kiểu Liên Xô, bỏ qua vai trò của nông dân nhỏ lẻ. Năm 1969, Fidel phát động “Chiến dịch 10 triệu tấn mía đường”, dồn toàn bộ nguồn lực quốc gia vào sản xuất đường. Kết quả của ý chí ấy, Cuba chỉ đạt 8,5 triệu tấn, nền kinh tế kiệt quệ, nhiều ngành khác bị đình trệ. Cuba trở nên lệ thuộc quá mức vào xuất khẩu đường, dễ tổn thương khi giá thế giới giảm.
Thứ ba là phụ thuộc vào Liên Xô. Fidel gắn chặt Cuba với khối XHCN, đặc biệt là Liên Xô, thành trì của phe XHCN. Liên Xô mua đường Cuba giá cao, bán dầu và hàng công nghiệp giá rẻ, tạo cơ chế “bao cấp bên ngoài”. Khi Liên Xô sụp đổ (1991), Cuba rơi vào “thời kỳ đặc biệt”: thiếu nhiên liệu, lương thực, vận tải tê liệt, GDP sụt giảm tới 35%.
Thứ tư là cấm đoán và quản lý quá chặt khu vực tư nhân. Fidel kiên quyết không cho kinh tế tư nhân phát triển, kể cả dịch vụ nhỏ lẻ. Ngay cả trong giai đoạn khủng hoảng 1990s, khi phải mở cửa cho “paladar” (nhà hàng tư nhân nhỏ), chính phủ vẫn siết chặt, gây nản lòng nhà đầu tư và người dân.
Thứ năm là chậm cải cách và thiếu linh hoạt. Khác với TQ hay VN, Fidel gần như không tiến hành “cải cách mở cửa” theo hướng thị trường. Tư duy kinh tế vẫn xoay quanh kế hoạch hóa tập trung, ưu tiên chính trị – ý thức hệ hơn hiệu quả kinh tế. Fidel nhiều lần phát biểu: “Chúng ta thà ăn cỏ còn hơn từ bỏ chủ nghĩa xã hội”. Điều này thể hiện sự đặt nặng chính trị – độc lập dân tộc hơn là cải thiện đời sống kinh tế. Hệ quả là mức sống người dân thấp, hàng hóa khan hiếm, tem phiếu duy trì kéo dài.
Fidel Castro được coi là “lãnh tụ cách mạng lãng mạn”, hùng biện mạnh mẽ. Người Cuba bị mê hoặc bởi khả năng hùng biện của ông. Họ nghiện Fidel như nghiện ma túy. Dẫu Fidel đã die được gần chục năm nhưng những đệ tử của ông vẫn trung thành với hệ thống chính trị mà Fidel đã kiến tạo. Nhiều chuyên gia VN đã ngỏ lời tư vấn cho Cuba để chuyển đổi nền kinh tế nhưng vì cái bóng của Fidel quá lớn khiến Cuba vẫn kiên định với nền kinh tế cào bằng và là một quốc gia nghèo đói bền vững.

Không có nhận xét nào: