Phán quyết của Tòa Trọng tài về Biển Đông được đưa ra ngày
12/7/2016 là một sự kiện pháp lý làm thay đổi cuộc chơi.[1] Với tư cách là một
bên chính trong tranh chấp Biển Đông, Phán quyết đã tạo ra những tác động quan
trọng đối với Việt Nam. Bài viết này chỉ ra cả cơ hội lẫn thách thức cho Việt
Nam, cũng như là những tác động trước mắt và lâu dài từ Phán quyết của Tòa
Trọng tài.
Việt Nam – một bên chính trong tranh chấp
Biển Đông
Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa trên cơ sở chiếm hữu thực sự (effectivités) theo luật
pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ. Trong một công hàm gửi lên Liên hợp quốc ngày
ngày 22/02/2016, Việt Nam khẳng định rằng Việt Nam “có đầy đủ cơ sở pháp lý và
bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo
Hoàng Sa [Paracels] và Trường Sa [Spratlys]. Các chính quyền Việt Nam kế tiếp
nhau đã thực thi và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo một cách
hòa bình và liên tục ít nhất là từ thế kỷ XVII.”[2]
Là một quốc gia ven biển Biển Đông, Việt Nam
nhận thức được tầm quan trọng của biển và đã khẳng định các vùng biển của mình
trong một tuyên bố vào năm 1977, thậm chí trước khi Công ước năm 1982 của Liên
Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) có hiệu lực. Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán trong năm vùng biển: nội thủy; lãnh hải; vùng
tiếp giáp lãnh hải; vùng đặc quyền kinh tế (EEZ); và thềm lục địa. Tuyên bố này
đã được ghi nhận lại trong Luật số 18/2012/QH13 về Biển của Việt Nam năm 2012.
Trước đó, trong năm 2009, Việt Nam đã hoạch định 200 hải lý EEZ và đệ trình
thềm lục địa mở rộng của mình lên Ủy ban về Ranh giới Thềm lục địa Liên hợp
quốc (CLCS).[3] Về các vùng biển của quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa,
Việt Nam đã áp dụng các nguyên tắc chung được ghi nhận trong UNCLOS, nhưng
không chỉ rõ chi tiết cụ thể về chế độ pháp lý của từng thực thể địa lý
(features) trên biển.[4] Về giải quyết tranh chấp, Việt Nam đã liên tục bày tỏ
lập trường sẵn sàng giải quyết tất cả các tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc
tế, đặc biệt là UNCLOS.[5] Nhìn chung, Việt Nam đã dựa vào luật pháp quốc tế để
củng cố yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và dựa vào
UNCLOS để xác định các vùng biển của mình ở Biển Đông.
Sự xác thực của cơ sở pháp lý trong yêu sách
biển của Việt Nam
Trong vấn đề luật áp dụng để tạo ra các vùng
biển, Tòa Trọng tài kết luận chắc chắn rằng UNCLOS quy định và xác định các
giới hạn trong một hệ thống toàn diện về các vùng biển có thể được tạo ra, bao
gồm bất kỳ khu vực nào của biển hoặc đáy biển.[6] Về cơ bản, Tòa Trọng tài đã
thừa nhận phương pháp mà Việt Nam sử dụng để xác định các vùng biển của Việt
Nam ở Biển Đông phù hợp với UNCLOS.
Trong vài năm qua, do có các yêu sách đối kháng
trên biển giữa Bắc Kinh và Hà Nội, một số vụ việc nghiêm trọng đã xảy ra trong
vùng biển mà Việt Nam đã tuyên bố là EEZ và thềm lục địa. Các vụ việc này có
thể kể đến như việc tàu Trung Quốc cắt đứt dây cáp tàu thăm dò của Việt Nam của
trong năm 2011, việc công ty dầu khí quốc gia của Trung Quốc mở chín lô dầu khí
để đấu thầu trong EEZ của Việt Nam vào năm 2012, việc hạ đặt giàn khoan
HYSY-981 trong EEZ của Việt Nam vào năm 2014 và các ngư dân Việt Nam thường
xuyên bị bắt giữ.
Xem xét qua ngôn từ và hành động, Trung Quốc
dường như tuyên bố chủ quyền hoặc quyền lịch sử đối với nguồn tài nguyên biển
trong đường chín đoạn, theo đó đến 60% EEZ và thềm lục địa của Việt Nam bị đặt
trong tranh chấp.[7] Tuy nhiên, Tòa Trọng tài quyết định rõ ràng rằng “khi
Trung Quốc gia nhập Công ước và khi Công ước có hiệu lực, bất cứ quyền lịch sử
mà Trung Quốc có thể đã có đối với tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong
‘đường chín đoạn’ đã bị thay thế … bằng các giới hạn của các vùng biển đã được
quy định [trong UNCLOS]”.[8] Quyết định của Tòa án là một bước đột phá lớn cho
Việt Nam, vì có nghĩa là Trung Quốc không có các quyền trên biển trong đường
chín đoạn và do đó không có sự chồng lấn về yêu sách EEZ hay thềm lục địa giữa
hai nước.
Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, và cho rằng hai quần đảo có thể tạo ra các EEZ và thềm
lục địa.[9] Theo luật pháp quốc tế, điều này có nghĩa rằng không chỉ là chủ
quyền của các thực thể địa lý trên biển mà cả vùng biển tạo ra từ các thực thể
địa lý này đang có tranh chấp. Tuy nhiên, Tòa Trọng tài kết luận rằng không có
thực thể địa lý nào trong số các thực thể luôn nổi ở triều cao (high-tide
features) ở Trường Sa, bao gồm thực thể địa lý lớn nhất là Ba Bình (Itu Aba),
có thể tạo ra EEZ hay thềm lục địa.[10] Bằng quyết định này, Tòa Trọng tài đã
giải phóng hầu hết các không gian biển ở Biển Đông ra khỏi tranh chấp. Rất có
khả năng các tiêu chí mà các Trọng tài sử dụng để xác định vùng biển của quần
đảo Trường Sa cũng sẽ được áp dụng cho quần đảo Hoàng Sa. Theo đó, không gian
biển có tranh chấp từ các quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa có thể được
thu hẹp lại trong phạm vi 12 hải lý của những thực thể địa lý luôn nổi ở triều
cao của hai nhóm đảo.
Với những kết luận mang tính bước ngoặt của Tòa
Trọng tài, hầu hết EEZ và thềm lục địa từ đất liền của Việt Nam không có tranh
chấp và hoàn toàn thuộc về các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
Các biện pháp giải quyết tranh chấp thay thế
Với mong muốn giải quyết các tranh chấp trên
biển một cách hòa bình, Việt Nam đã bắt đầu đàm phán với Trung Quốc về các vấn
đề biên giới trong Vịnh Bắc Bộ từ năm 1973. Năm 2000, hai nước đã ký kết một
hiệp định phân định biển và một hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ. Các
hiệp định này là thỏa thuận phân định biển đầu tiên giữa Trung Quốc và một nước
láng giềng, và thường được trích dẫn như một mô hình cho việc giải quyết tranh
chấp thành công và đàm phán kiên trì.
Xây dựng trên sự thành công của mô hình này, và
việc thực hiện các cam kết trong Thỏa thuận Những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo
giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc ngày 11/10/2011,[11] Việt Nam
vẫn đang duy trì ba cơ chế đàm phán với Trung Quốc: đàm phán về phân định vùng
biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ; về hợp tác trên biển các vấn đề không nhạy cảm; và
về khả năng phát triển chung các nguồn tài nguyên biển ở Biển Đông. Về các vấn
đề không nhạy cảm trên biển, hai bên đã nhất trí thực hiện ba dự án hợp tác về
môi trường biển và tìm kiếm cứu nạn.[12] Tuy nhiên, rất ít tiến triển đã đạt
được trong hai lĩnh vực khác do sự bất đồng rất lớn trong quan điểm của mỗi
bên. Mặc dù Việt Nam mong muốn thúc đẩy đàm phán, Trung Quốc tiếp tục duy trì
quan điểm cứng rắn về chủ quyền “không thể tranh cãi” của mình trên quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa và đường chín đoạn.[13] Những bế tắc trong đàm
phán có thể buộc Việt Nam phải theo đuổi các cơ chế giải quyết tranh chấp khác
có hiệu quả hơn.
Trong công hàm ngày 13/6/2016, Việt Nam khẳng
định rằng “hai nước có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp trên quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa và tranh chấp khác ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình phù hợp với
luật pháp quốc tế. Khi không đạt được một giải pháp thỏa thuận, hai nước có
quyền sử dụng biện pháp hòa bình khác theo quy định tại Điều 33 của Hiến chương
Liên hợp quốc và trong Điều 279 của Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển. Việc
viện dẫn đến biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp là một biện pháp thân
thiện và hiệu quả để giảm bớt căng thẳng trong khu vực và cung cấp triển vọng
mới cho hợp tác và phát triển cho tất cả các quốc gia ven biển ở Biển
Đông”.[14] Theo đó, kết quả của vụ việc Philippines kiện Trung Quốc có thể cung
cấp cho Việt Nam một lựa chọn thay thế và hiệu quả hơn để giải quyết các tranh
chấp trên biển với Trung Quốc và bảo vệ quyền chủ quyền và quyền tài phán của
mình trong EEZ và thềm lục địa.
Áp lực đối với Việt Nam trong việc minh bạch
hóa yêu sách
Phán quyết Biển Đông mở ra không chỉ cơ hội mà
còn thách thức đối với Việt Nam. Thứ nhất, Việt Nam vẫn chưa hoàn thành việc vẽ
đường cơ sở thẳng (straight baselines) tại một số khu vực, bao gồm Vịnh Bắc Bộ,
vịnh Thái Lan, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong phán quyết, Tòa Trọng tài
kết luận rằng sử dụng đường cơ sở thẳng xung quanh quần đảo Trường Sa tương tự
như đường cơ sở quần đảo (archipelagic baselines) sẽ trái với UNCLOS.[15] Do
đó, Việt Nam nên thiết lập đường cơ sở thẳng cho quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa
bằng cách nhóm các thực thể địa lý trong vòng 12 hải lý với nhau và nhóm đảo
(island) với những bãi cạn lúc nổi lúc chìm (low-tide elevations) nằm trong
vòng 12 hải lý của đảo đó. Khi làm như vậy, Việt Nam cần phân loại các thực thể
địa lý trên biển ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như bãi ngầm (submerged
features), bãi cạn lúc chìm lúc nổi (low-tide elevations) hoặc các thực thể
luôn nổi ở triều cao (high-tide features), và xác định vị trí của chúng. Tòa
Trọng tài đã khởi đầu quá trình này bằng cách xác định Bãi Cạn Scarborough, Đá
Gạc Ma (Johnson Reef), Đá Châu Viên (Cuarteron Reef), Đá Chữ Thập (Fiery Cross
Reef), Đá Ga Ven [Gaven Reef (North)] và Đá Ken Nan (McKennan Reef) là đá
(rocks), và Đá Tư Nghĩa (Hughes Reef), Đá Lạc [Gaven Reef (South)], Đá Xu Bi
(Subi Reef), Bãi Vành Khăn (Mischief Reef) và Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal)
là bãi cạn lúc nổi lúc chìm. Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) và Bãi Vành Khăn
(Mischief Reef) là một phần của EEZ và thềm lục địa của Philippines. Đá Tư
Nghĩa (Hughes Reef) nằm trong vòng 12 hải lý của các thực thể địa lý luôn nổi ở
triều cao – Đá Ken Nan (McKennan Reef) và đảo Sinh Tồn (Sin Cowe Island); Đá
Lạc [Gaven Reef (South)] nằm trong vòng 12 hải lý của thực thể địa lý luôn nổi
ở triều cao – Đá Ga Ven [Gaven Reef (North)] và đảo Nam Yết (Namyit Island); và
Đá Xu Bi (Subi Reef) nằm trong 12 hải lý của thực thể địa lý luôn nổi ở triều
cao – Sandy Cay trên các rạn san hô ở phía tây của đảo Thị Tứ (Thitu
Island).[16] Thông qua những kết luận này, Việt Nam cần làm rõ chế độ pháp lý
của các thực thể địa lý trên biển khác trong quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thứ hai, việc phân loại các thực thể địa lý trên
biển và vị trí của chúng cũng củng cố nền tảng để Việt Nam làm rõ vấn đề chủ
quyền. Theo đó, Việt Nam có thể tuyên bố chủ quyền trên các thực thể địa lý luôn
nổi ở triều cao và các bãi cạn lúc nổi lúc chìm nằm trong 12 hải lý của thực
thể địa lý này trong quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các bãi cạn lúc nổi lúc
chìm nằm vượt quá 12 hải lý của một thực thể địa lý luôn nổi ở triều cao trong
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng nằm trên thềm lục địa của đất liền Việt
Nam, hoàn toàn thuộc về Việt Nam. Nếu một bãi cạn lúc chìm lúc nổi nằm trên
thềm lục địa chồng lấn giữa Việt Nam và các nước láng giềng, số phận của bãi
cạn này cần được quyết định thông qua phân định biển. Một bãi cạn lúc chìm lúc
nổi nằm ngoài thềm lục địa của Việt Nam thì không phải là đối tượng của một
tuyên bố chủ quyền. Các bãi ngầm – bất kể vị trí ở đâu-không phải là đối tượng
của một tuyên bố chủ quyền. Các bãi ngầm là một phần của đáy biển (sea bed) và
theo đó địa vị pháp lý của chúng sẽ được quyết định bởi chế độ pháp lý của đáy
biển.
Thứ ba, Việt Nam nên hợp tác với Malaysia để
hoàn tất đệ trình thềm lục địa mở rộng tại CLCS. Đoạn 5 (a) của Phụ lục I của
Quy tắc và Thủ tục của CLCS quy định rằng: “trong những trường hợp tồn tại
tranh chấp lãnh thổ hoặc tranh chấp biển, một đệ trình được thực hiện bởi bất
kỳ nước hữu quan nào trong tranh chấp sẽ không được Ủy ban xem xét và coi là đủ
điều kiện “. Sau khi Việt Nam và Malaysia đã gửi đệ trình chung trong năm 2009,
Trung Quốc đã nộp bản phản đối lên CLCS trên cơ sở tồn tại tranh chấp lãnh thổ
và tranh chấp biển.[17] Thông qua phán quyết của Tòa Trọng tài về giá trị pháp
lý của đường chín đoạn và các vùng biển được tạo ra từ các thực thể địa lý ở
quần đảo Trường Sa, phản đối của Trung Quốc đã không còn giá trị. Do đó,
Malaysia và Việt Nam cần phối hợp với Philippines đề nghị CLCS xem xét giới hạn
thềm lục địa mở rộng và từ đó hoàn tất việc xác định các vùng biển thuộc quyền
tài phán ở Biển Đông.
Phán quyết Biển Đông đã mở ra một chương mới
trong cuộc tranh chấp kéo dài ở Biển Đông. Bây giờ là thời điểm các bên tranh
chấp nắm bắt các cơ hội từ Phán quyết, và chuyển đổi điểm nóng của khu vực này
trở thành một vùng biển hợp tác dựa trên thiện chí và các quy định của pháp
luật.
Tác giả: Nguyễn Thị Lan Anh
Biên dịch: Trần Thị Kim Nguyên
Contemporary Southeast Asia Vol. 38/3, 12/2016
Đại Sự Ký Biển Đông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét