Không mơ hồ “16 chữ vàng” và “4 tốt”
Đối với Việt Nam,
Trung Quốc là một nước láng giềng quá lớn không thể không tính đến và không thể
thoái thác quan hệ. Cuộc khủng hoảng HD-981 do Trung Quốc gây ra đã đẩy quan
hệ Việt-Trung vào thế bế tắc. Người Việt Nam ta cần nhìn lại mối quan hệ này, xác
định một cách minh triết bản chất mối quan hệ ấy, tránh những điều mơ hồ, ngộ
nhận. Tránh cái bẫy ý thức tư tưởng có thể gây chập chững về chiến lược, nhập
nhằng và mơ hồ giữa các ngôn từ hữu nghị, đối tác, đồng chí, đại cục, v.v.. và
v.v..
Kể từ khi phía Trung
Quốc khái quát phương châm 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn
định lâu dài, hướng tới tương lai”, nêu trong Tuyên bố chung cấp cao 1999, phía
ta lại thêm vào đó một chữ “vàng”. 16 chữ vàng tạo nên sự ngộ nhận to lớn.
Đến năm 2002, người
Trung Quốc lại khái quát một phương châm nữa, gọi là “4 tốt”: "Láng giềng
tốt, Bạn bè tốt, Đồng chí tốt, Đối tác tốt".
Điều mơ hồ nhất trong
những điều mơ hồ lần này chính là hai chữ “đồng chí”. Nó hàm ý một điều phi lý
là hai bên cùng chung ý thức hệ, cùng chung chí hướng. Làm quên mất một điều sơ
đẳng nhất của chính trị quốc tế trong mọi thời đại: Giữa các quốc gia, “không
có đồng minh vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích vĩnh viễn”.
Đặng Tiểu Bình và Michail Gorbachev đều rất thích dùng lại câu nói này của một
chính khách nổi tiếng người Anh, Lord Palmerston, thế kỷ 19. Họ đều lấy lợi ích
quốc gia làm trục cốt lõi để xoay các quan hệ đối ngoại sao cho tối đa hóa lợi
ích quốc gia. Nhưng lại dùng những lời mĩ miều nhằm gây mơ hồ và chập chững cho
phía đối tác hoặc đối tượng.
Năm nguyên tắc chung
sống hòa bình do hai thủ tướng Trung Quốc và Ấn Độ long trọng tuyên bố
ngày 29/4/1954 làm cơ sở cho quan hệ giữa hai nước lớn: “Tôn trọng sự toàn vẹn
lãnh thổ và chủ quyền của nhau; không tấn công nhau; không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; bình đẳng và hai bên cùng có lợi; chung sống hoà bình”,
được nhiều quốc gia khác coi là nguyên tắc chỉ đạo quan hệ giữa các nước trong
thời kỳ hiện đại. Thế nhưng các nguyên tắc ấy đã không ngăn cản Trung Quốc mở
cuộc chiến tranh bất ngờ chống lại Ấn Độ năm 1962.
Tương tự như vậy, ngày
15/10/2013, hai Thủ tướng Trung Quốc và Việt Nam thỏa thuận những nguyên tắc
giải quyết các xung đột trên Biển Đông thì chưa đầy 7 tháng sau, Trung Quốc đã
đưa giàn khoan vào hạ đặt tại thềm lục địa và Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của
Việt Nam.
Việt Nam là một nước
nhỏ so với Trung Quốc, sao có thể làm “bạn bè tốt”? Một nước yếu và
một nước mạnh sao có thể làm “đối tác tốt”?
Nhưng, láng giềng vẫn
là láng giềng, đối tác vẫn là đối tác, vẫn cứ hợp tác toàn diện, vẫn cứ hướng
tới tương lai... Đâu có gì là không được! Nhưng cần đặt các quan hệ này trên
một nền tảng minh bạch, không ngộ nhận, không mơ hồ.
Trong quan hệ với
Trung Quốc những năm gần đây, Việt Nam luôn nêu cao “3 không” (không liên minh
quân sự, không cho đặt căn cứ quân sự của nước ngoài, không liên minh với nước
này chống nước khác). Nhưng điều Trung Quốc muốn là sự khuất phục. Người Trung
Quốc thường đề cao phương châm “nước mạnh ắt bá quyền”. Cứ mỗi lần, khi hai
nước có đụng độ trên biển, các phần tử hiếu chiến lại đe dọa động binh, hòng
gây mất ổn định Việt Nam. Việt Nam vì lợi ích ổn định, an ninh, phát triển lâu
dài đất nước, không thể để mất quyền chủ động chiến lược và những con bài chiến
lược.
Từ giữa những năm 1950
đến nay, Trung Quốc lần lượt năm lần lấn chiếm Biển Đông của Việt Nam. Hai lần
hải chiến trên biển, một lần trên đất liền. Sự kiện giàn khoan 981 từ đầu tháng
5/2014 đến nay là giai đoạn thứ sáu của cuộc lấn chiếm biển đảo của Việt Nam.
Ngay trong giai đoạn mà các chữ vàng và những điều tốt được nhắc đi nhắc lại,
thì Trung Quốc tích cực tranh chấp, tích cực khai thác Biển Đông, đàn áp ngư
dân Việt Nam hoạt động trên những ngư trường truyền thống, cắt cáp của tàu thăm
dò dầu khí của Việt Nam, v.v.. Trong quan hệ kinh tế, Việt Nam phải trả một
giá cao.
Nhân dịp này, thiết
tưởng cần sòng phẳng với lịch sử. Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước mấy chục
năm trước nhằm thực hiện mục tiêu độc lập, thống nhất đất nước, nhân dân Việt
Nam đã kiên trì chiến đấu, không ngại hy sinh gian khổ. Trong các thời kỳ khó
khăn gian khổ ấy, chúng ta ghi nhớ công ơn giúp đỡ to lớn của Chính phủ và nhân
dân Trung Quốc. Nhưng, sự hy sinh to lớn của nhân dân Việt Nam cũng đã đóng góp
quan trọng vào việc Pháp và các nước phương Tây năm 1954 buộc phải ngồi vào bàn
thương lượng với Trung Quốc để giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương, tạo điều
kiện cho Trung Quốc đột phá bức màn chiến tranh lạnh sau cuộc viện Triều chống
Mỹ ở Triều Tiên. Tại Hội nghị Giơnevơ 1954, Ngoại trưởng Mỹ từ chối bắt tay Thủ
tướng Trung Quốc, nhưng đến năm 1972, Tổng thống Mỹ phải đến Bắc Kinh để thúc
đẩy giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam, từ đó mở ra cục diện mới quan hệ
Trung-Mỹ.
Ngày nay, chúng ta cần
có cách tiếp cận cụ thể và đổi mới đối với các khái niệm truyền thống
“ta-địch”, “đối tượng-đối tác”, tuyệt đối không để những khái niệm “đồng chí,
anh em” gây mơ hồ, để ta có thể thực hiện những mối quan hệ hợp tác với Trung
Quốc phù hợp với lợi ích quốc gia của mỗi nước.
Để độc lập, tự chủ
chính trị thì cần độc lập tự chủ về kinh tế. Giai đoạn tới, ta phải sắp xếp lại
ngôi nhà kinh tế của mình trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc và với các đối
tác tham gia Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Chính lĩnh vực kinh
tế đòi hỏi tinh thần yêu nước và trách nhiệm cao nhất của mỗi người Việt Nam
ta.
Trước cuộc xung đột
tại Biển Đông hiện nay, ta không để bị kích động. Cũng không tự mình kích động.
Kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo, nhưng bình tĩnh, tỉnh táo để không sa vào
cái bẫy chiến tranh. Sự dũng cảm ngoan cường của những ngư dân bám biển, của
các chiến sĩ cảnh sát biển, kiểm ngư chống chọi với lực lượng lớn hải quân và
ngư chính của phía Trung Quốc tại vùng biển Hoàng Sa, sự đồng lòng nhất trí của
nhân dân, sự thẳng thắn trong phát biểu của người đứng đầu Chính phủ Việt Nam
tại diễn đàn ASEAN ở Naypyidaw, hay tại diễn đàn kinh tế quốc tế ở Manila,
tuyên bố mạnh mẽ của Quốc hội Việt Nam về vấn đề Biển Đông... đã thúc đẩy dư
luận quốc tế lên tiếng phản đối Trung Quốc và ủng hộ quyền lợi chính đáng của
Việt Nam. Và buộc Bắc Kinh phải cân nhắc hành động khi leo thang xung đột.
Quan hệ Việt-Trung sắp
tới cần được đặt vào quỹ đạo mới không bị chi phối bởi lời lẽ mơ hồ mà trên cơ
sở những lợi ích của quốc gia, của hợp tác cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau và
hữu nghị giữa hai dân tộc, hai nước láng giềng liền núi, liền sông, liền
biển./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét