Dương Quốc Chính
Cuộc xung đột tại Việt Nam từ năm 1954 đến 1975 vẫn là một trong những sự kiện phức tạp và gây tranh cãi nhất của thế kỷ 20, phần lớn là do bản chất cơ bản của nó vẫn còn là chủ đề tranh luận. Đó là một cuộc đấu tranh anh dũng vì độc lập, một cuộc nội chiến bi thảm, một mặt trận của Chiến tranh Lạnh, hay một trận chiến ủy nhiệm?
Bản chất của Chiến tranh Việt Nam không thể được thấu hiểu qua một lăng kính duy nhất. Đó là một cuộc xung đột tổng hợp, một cuộc chiến của những tầng lớp đan xen, nơi một cuộc chiến tranh do chủ nghĩa dân tộc thúc đẩy nhằm thống nhất và giành độc lập đã hòa quyện không thể tách rời với một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Cuộc xung đột nội bộ này sau đó đã được quốc tế hóa, khuếch đại và duy trì bởi cuộc đấu tranh ý thức hệ toàn cầu của Chiến tranh Lạnh, vốn đã biến các bên tham chiến thành những con bài ủy nhiệm cho tham vọng của các siêu cường.
.....
Sự chia cắt Việt Nam không chỉ là một diễn biến tự nhiên hay nội tại. Nó là sản phẩm trực tiếp của sự can thiệp từ bên ngoài. Ngay từ khi đàm phán HĐ Geneva, Chu Ân Lai mới là người quyết định nội dung đàm phán của phía VNDCCH. Ông ta đề nghị phân chia ở vĩ tuyến 17. Hội nghị Geneva cũng là hệ quả của việc TQ không đồng ý tiếp tục hỗ trợ VM đánh Pháp như đã làm ở ĐBP. Trước khi ký HĐ, phía VNDCCH có họp ở Liễu Châu với Chu Ân Lai, việc đề xuất cài người và vũ khí ở lại miền Nam cũng đã được Võ Nguyên Giáp và HCM bàn thảo và thống nhất với Chu Ân Lai.
Còn phía bên kia, thì Pháp mới là bên quyết định nội dung đàm phán, QGVN và 2 CP hoàng gia Lào và Campuchia không có quyền quyết định dù được nêu ý kiến. QGVN và Mỹ không ủng hộ việc phân chia VN. Cuối cùng thì HĐ Geneva chỉ có chữ ký của VNDCCH và Pháp.
Như vậy, hiệp định Geneva về bản chất là do TQ đại diện là thủ tướng Chu Ân Lai và Pháp, đại diện là THỦ TƯỚNG BIDAULT, mới là 2 kẻ quyết định nội dung, còn VNDCCH và QGVN và các CP Lào, Campuchia đều không quyết định.
Chính vì vậy, VNCH, kế thừa QGVN, vẫn do Ngô Đình Diệm (từng là thủ tướng QGVN vào thời điểm ký HĐ Geneva) làm TT, tất nhiên không chấp nhận thực thi hiệp định trong việc tổng tuyển cử. Thêm nữa, việc cài người ở lại (điển hình là ông Lê Duẩn) và việc cất giấu vũ khí lại miền Nam, cũng đã vi phạm hiệp định về điều khoản phải tập kết. Việc miền Bắc CCRĐ hay miền Nam tố cộng, diệt cộng cũng đã là trả thù người của phía bên kia, là vi phạm hiệp định.
Vì thế, việc HĐ không được thực thi đến cùng là điều dễ hiểu, từ đó dẫn tới sự chia cắt, nó vừa bắt nguồn từ mâu thuẫn nội tại giữa phe CS và phe QG, vừa là mâu thuẫn ý thức hệ mang tính quốc tế do sự can thiệp từ Pháp, Mỹ, TQ, và LX lúc đó đứng sau TQ.
Việc Mỹ và VNCH ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử năm 1956 đã biến vấn đề thống nhất quốc gia của Việt Nam thời hậu thuộc địa thành một cuộc xung đột mới, không thể hòa giải, được đóng khung bởi logic của Chiến tranh Lạnh. Chính sự tồn tại của "hai miền Việt Nam" mà sau này sẽ chiến đấu trong một cuộc chiến được gọi là "nội chiến" lại là một sản phẩm của chính sách đối ngoại của Mỹ. Điều này cho thấy ngay từ đầu, các khía cạnh nội bộ và bên ngoài của cuộc chiến đã không thể tách rời.
...
Từ việc phân tích các diễn ngôn, bản chất chính là quan điểm của các bên liên quan như VNDCCH, VNCH, Mỹ, nhưng chúng ta không thể đánh giá chung chung cho toàn bộ cuộc chiến từ 54-75 vì bản chất của mỗi giai đoạn lại rất khác nhau. Chiến tranh VN cần được chia thành các giai đoạn chính liên quan đến các diễn ngôn nói trên:
Giai đoạn 1: 1954-1960 Đây là 6 năm vàng son của chính quyền của TTg rồi TT Ngô Đình Diệm. Giai đoạn này phía Bắc Việt chưa có can thiệp vũ trang vào Nam, cuộc đấu tranh của phe CS miền Nam vẫn chủ yếu là đấu tranh chính trị. Nên 6 năm này được coi là 6 năm hòa bình, yên ổn cho chính quyền ông Diệm.
Giai đoạn này Mỹ chỉ can thiệp chính trị thông qua các cố vấn và sứ quán, nhân viên CIA, quân đội Mỹ chưa hề tham chiến trực tiếp. Nhưng vậy, diễn ngôn chống đế quốc Mỹ xâm lược dường như không chính xác. Nếu coi việc can thiệp chính trị của Mỹ là xâm lược thì các cố vấn TQ ở miền Bắc cũng có những can thiệp tương tự ở cùng thời điểm, dù không sâu bằng, nhưng vẫn nổi bật bằng cuộc CCRĐ long trời lở đất, liệu có phải là xâm lược?
Về tổng thể, giai đoạn này coi như chưa có nội chiến cũng chưa có chiến tranh ủy nhiệm hay xâm lược. Nếu coi can thiệp chính trị là xâm lược thì 2 miền đều có màu sắc đó.
Giai đoạn 2: 1961-1963 Đây là giai đoạn chế độ Ngô Đình Diệm bắt đầu khủng hoảng rồi sụp đổ, cũng là thời điểm MTDTGPMNVN được thành lập cùng với nghị quyết TƯ 15 của VNDCCH quyết định GP miền Nam bằng bạo lực. Rồi những nhóm quân Bắc Việt đầu tiên vào Nam chiến đấu cũng như hỗ trợ MTDTGP gây rối chính quyền VNCH, là tác nhân quan trọng khiến đệ nhất CH sụp đổ. Điển hình như phong trào Phật giáo, được coi là có bàn tay của CS hay đồng khởi Bến Tre, trận Ấp Bắc.
Giai đoạn này quân đội Mỹ cũng chưa can thiệp nhưng quân Bắc Việt đã bắt đầu vào Nam và đụng độ chiến tranh vũ trang đã diễn ra. Nghĩa là diễn ngôn Mỹ xâm lược có vẻ không chính xác nhưng Bắc Việt xâm lược thì đã được phe miền Nam đưa ra.
Giai đoạn này bắt đầu có nội chiến, tính từ thời điểm thành lập MTDTGP, không giống Mỹ xâm lược và bắt đầu nhen nhóm chiến tranh ủy nhiệm. Cho đến thời điểm này, chiến tranh ủy nhiệm là chưa thể thực hiện rõ ràng. Đó là vì chính sách chung sống hòa bình của Khrushchev từ năm 55, LX không ủng hộ VNDCCH đấu tranh vũ trang với VNCH và Mỹ.
Giai đoạn 3: 1964-1966 Đây là giai đoạn VNCH khủng hoảng chính trị với các chính quyền quân quản, phía MTDTGP và Bắc Việt hoạt động mạnh tại miền Nam dẫn tới nguy cơ VNCH Sụp đổ hoàn toàn, từ đó dẫn tới việc quân đội Mỹ chính thức can thiệp sau cái cớ là sự kiện Vịnh Bắc Bộ năm 1964 và năm 1965 thì quân đội Mỹ chính thức đổ vào Đà Nẵng. Năm 64 cũng là thời điểm mà Khrushchev bị hạ và Brezhnev quyết định thay đổi chính sách và quyết định hỗ trợ Bắc Việt đánh vào Nam.
Như vậy, bắt đầu từ giai đoạn này, chính xác là từ sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ, cuối năm 1964 đầu năm 1965, cuộc chiến đã thêm màu sắc ủy nhiệm từ các nước lớn là Mỹ và bên kia là LX và TQ. Màu sắc nội chiến và chiến tranh chống xâm lược cũng đã rõ ràng hơn.
Giai đoạn 4: 1967-1973 Đây là giai đoạn hình thành đệ nhị VNCH và chiến tranh leo thang tới đỉnh điểm là trận tết Mậu Thân năm 1968 và số lượng quân Mỹ đồn trú ở VN đông nhất vào năm 1969 vào khoảng hơn 500 ng quân. Giai đoạn này quân đội TQ, Bắc Triều Tiên, cố vấn LX cũng có mặt tại miền Bắc để tham chiến với không quân Mỹ. Cùng lúc đó, đồng minh của Mỹ và VNCH là Hàn Quốc, Thái Lan, Úc, New Zealand và các nước khác cũng tham chiến bên cạnh Mỹ. Tuy nhiên kể từ năm 70-73, trước HĐ Paris, quân Mỹ đã rút tới 90% so với năm 1969.
Đây là giai đoạn mà cả 3 diễn ngôn nói trên đều rõ ràng nhất tùy vào mỗi góc nhìn.
Giai đoạn 5: 1974-1975 Đây là giai đoạn sau HĐ Paris, Mỹ và đồng Mỹ đã rút quân khỏi VNCH nhưng quân Bắc Việt vẫn ở lại, phần lớn núp dưới bóng quân đội CP Lâm thời CHMNVN. Cho đến ngày 30/4/1975 thì toàn bộ quân Bắc Việt ở VNCH đều đứng dưới cờ nửa đỏ nửa xanh, chỉ còn vài người trong phái đoàn 4 bên đóng tại trại Davis là còn dưới danh nghĩa quân VNDCCH.
Giai đoạn này diễn ngôn chống Mỹ xâm lược không còn chính xác, mà màu sắc cuộc chiến lại quay về gần như giai đoạn 61-63, khi quân Mỹ không còn mà quân Bắc Việt lại đông. Khi đó phía VNCH cho rằng phía Bắc Việt mới là xâm lược, màu sắc nội chiến và ủy nhiệm vẫn rõ nét khi LX và TQ vẫn tiếp tục hỗ trợ quân Bắc.
.
> https://tapchilichsudang.vn/chien-tranh-viet-nam-trong-cuc-dien-tam-giac-my-trung-xo-1954-1975.html
Những gì thuộc về lịch sử chúng ta cần có cái nhìn không thiên kiến.
Trả lờiXóaMột cái nhìn của sự thật. Dù sự thật ấy có là nỗi đau nhưng lịch sử cần được tôn trọng. Lịch sử là lịch sử.